Định cư tại San Antonio, Texas
Sau gần một năm trời như người mất hồn mà vẫn ráng tìm cho ra một công việc làm văn phòng mà lương bổng không tệ lắm thì vào đầu mùa hè 1976 tôi được tuyển làm chủ biên tài liệu huấn luyện (training modules editor) cho một công ty mới trúng thầu được khế ước dài hạn với Defense Language Institute của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Gia đình tôi gấp rút chuyển cư từ Georgia đến San Antonio, Texas để tôi nhận việc. Công việc làm văn phòng tương đối nhẹ nhàng (trách nhiệm duy nhất là “editing” và “proofing” các tài liệu huấn luyện trước khi nộp cho nhà in) mà lợi tức cũng tạm đủ mưu sinh cho gia đình. Vậy mà sao tôi vẫn còn quá luyến tiếc cái khung trời Đại học Sài Gòn thân thương của tôi đã bị tiêu tan vì quốc nạn 1975.
Nỗi luyến tiếc day dứt ấy đã thúc đẩy tôi tìm cách “trở lại nghề cũ” bằng mọi giá, mặc dù tôi biết rõ công việc dạy đại học toàn thời gian (với hy vọng đạt được “tenure” để khó bị sa thải) thì rất khó kiếm. Tìm việc dạy đại học ở Mỹ là một cuộc tranh tài gắt gao giữa nhiều ứng viên, đúng như cảnh “một con cá nhảy bao người buông câu” ít hứa hẹn. Thôi thì đành nhẫn nại mà kiếm, khởi đầu bằng cách xin việc làm giảng viên part-time (lecturer) ở một community college để lấy kinh nghiệm “dạy học tại Mỹ” mỗi khi phải chứng minh.
San Antonio College
San Antonio College là trường đại học cộng đồng lớn nhất tiểu bang Texas có một campus rộng mênh mông trong trung tâm thành phố San Antonio, trên đại lộ huyết mạch San Pedro Avenue. Dân chúng ở đây gọi tắt tên trường này là “SAC” (phát âm như chữ “sack”). Để thực hiện bước đầu của giấc mơ “trở lại nghề cũ” tôi nhất quyết trở thành một “lecturer” khiêm tốn trong English department của San Antonio College gần nhà.
Hạnh ngộ đang chờ
Tôi bèn liên lạc bằng điện thoại vào văn phòng ban Anh văn của San Antonio College và được nói chuyện với vị trưởng ban. Tiến sĩ Roger Smith nhã nhặn lắm, và sau khi biết tôi từng du học tại Mỹ và dạy Anh văn ở Đại học Sài Gòn, ông mời tôi đến gặp ông tại campus. Tôi như “mở cờ trong bụng” khi ông cho biết lục cá nguyệt mùa thu 1976 sắp tới ban Anh văn cần tuyển thêm một giảng viên (lecturer) buổi chiều để dạy lớp “English composition” cho các sinh viên năm thứ nhất. Ông còn căn dặn tôi nhớ mang theo “vita” và “transcripts” của các đại học Mỹ đã cấp phát văn bằng, khi tôi đến gặp ông và vị giám đốc các lớp buổi chiều (director of the evening division) vào chiều ngày hôm sau.
Tổ chức và mục tiêu của SAC
Ngạc nhiên vì sao lại có cả một “evening division” tại SAC, tôi tìm hiểu qua cuốn niên giám của trường thì được biết số sinh viên đi học buổi chiều rất đông. Đại đa số các sinh viên buổi chiều là những người đã có công ăn việc làm ban ngày và do đó chỉ có thể đi học sau khi tan sở. Họ không còn trẻ trung như các cô cậu sinh viên vừa xong trung học là những người theo học các lớp ban ngày.
Sơ đồ tổ chức của trường đại học hai năm cấp phát văn bằng “associate” này khá chặt chẽ. Đứng đầu là vị viện trưởng (president). Viện trưởng được sự trợ tá của hai vị phó viện trưởng (vice presidents) phụ trách học vụ (academic affairs), sinh viên vụ (student affairs), cũng như của vị giám đốc thâu nhận sinh viên (director of admissions). Dưới quyền vị phó viện trưởng học vụ là các khoa trưởng (deans) của các khoa nhân văn và khoa học (arts and sciences), giáo dục tiếp nối (continuing education), vân vân. Và phối trí việc giảng dạy các lớp học là nhiệm vụ chính của các trưởng ban (chairs) các bộ môn (departments).
Nhân viên giảng huấn toàn thời gian mang các tước vị từ thấp lên cao là assistant professor, associate professor, professor. Còn các nhân viên giảng huấn khác (đa số chỉ dạy một hay hai lớp mỗi khóa học buổi chiều) được gọi là lecturers. Tất cả đều phải có học vị master trở lên. Các lecturers chỉ được nhà trường trả tiền theo số lớp học phụ trách, không được bảo hiểm sức khỏe, không có văn phòng riêng, và trước mỗi khóa học mới phải ký lại hợp đồng dạy học (teaching contract) nếu nhà trường có nhu cầu dùng họ. Đó là cách để các đại học cộng đồng tiết kiệm ngân quỹ, cho nên trường nào cũng sử dụng nhiều lecturers hơn là các giáo sư toàn thời gian.
“Thiện duyên” có thật và gắn bó
Buổi chiều ngày hôm sau, Tiến sĩ Roger Smith dẫn tôi đi giới thiệu với Tiến sĩ William Brown (giám đốc các lớp buổi chiều) tại văn phòng của ông Brown. Cả hai người đều rất lịch sự và hòa nhã trong buổi “job interview” cấp kỳ ấy, một điều tôi ghi nhớ mãi đến tận ngày nay. Họ xem xét vita và transcripts của tôi từ hai Đại học Miami và Georgetown, và hỏi tôi về kinh nghiệm dạy học. Rồi sau khi tôi ký tên vào đơn xin việc để hoàn tất thủ tục tuyển dụng làm lecturer, họ đứng lên bắt tay cảm ơn tôi đã hợp tác với SAC, và cho biết trong khoảng một tuần nữa tôi sẽ nhận được hợp đồng dạy học (teaching contract) gửi về nơi tôi cư ngụ. Tiến sĩ Smith cũng không quên tặng tôi cuốn textbook để soạn học trình (syllabus) cho lớp.
Hạnh ngộ nói trên là khởi điểm của một “thiện duyên” đã gắn bó cuộc đời tỵ nạn của tôi với nền giáo dục đại học ở Texas. Gắn bó đó lần lượt dẫn tôi vào ban giảng huấn của San Antonio College (1976-1980), Texas Woman’s University (1981- 1992), University of Texas at Dallas (1993-1997), rồi cuối cùng trở lại ngôi trường yêu mến nhất của tôi là Texas Woman’s University để dạy học cho đến khi về hưu với tước vị danh dự “Professor Emeritus” (1998-2012).
Tờ hợp đồng dạy học đầu tiên của tôi được gửi tới nhà y như lời họ hứa. Tôi không ngờ mức lương họ trả cho một lecturer lại khá như vậy. Mỗi lớp chỉ học một buổi chiều mỗi tuần trong lục cá nguyệt, tức là tôi phải dạy 15 buổi, mỗi buổi 3 tiếng đồng hồ. Chỉ làm việc 45 tiếng đồng hồ mà tôi được trả 875 Mỹ kim cho lớp ấy, tính ra là gần 20 Mỹ kim mỗi giờ. Thêm một ngạc nhiên thú vị, vì lúc ấy (1976) đồng Mỹ kim chưa bị “mất giá” như bây giờ (2016).
Lục cá nguyệt mùa thu 1976 khai giảng vào cuối tháng 8, và sinh viên học với tôi vào các ngày thứ ba mỗi tuần, bắt đầu từ 6 giờ chiều. Tôi đã soạn một học trình kỹ lưỡng cho lớp này, nắm vững nội dung cuốn textbook, và sẵn sàng “ra quân”! Buổi học đầu tiên cho tôi thấy San Antonio là một thành phố đa chủng tộc. Trong khoảng 25 sinh viên hiện diện thì hơn nửa thuộc sắc tộc Mễ tây cơ, số còn lại là người da trắng và đôi ba người da đen. Tôi tự giới thiệu qua loa và gửi lời chào mừng họ, trước bằng tiếng Anh và sau bằng tiếng Tây ban nha. Các sinh viên gốc Mễ tây cơ rất đỗi ngạc nhiên và lộ rõ niềm hân hoan vì tôi biết tiếng nói của họ!
Sau khi giải thích cho họ rõ mục tiêu của lớp và những trách nhiệm của họ trong khóa học, tôi chia xẻ với họ về quá trình dạy học của tôi tại Việt Nam cũng như công việc tôi đang làm ban ngày tại San Antonio. Phần thời giờ còn lại, tôi yêu cầu mọi người viết cho tôi một trang về cuộc đời của họ, để giúp tôi “làm quen” với họ. Tiện thể, đấy cũng là phương cách thực tế nhất để tôi lượng giá khả năng viết tiếng Anh của họ. Trước khi cho lớp ra về, tôi còn nhắc nhở họ chịu khó đi học đều đặn và đọc kỹ các chương trong textbook như đã ghi trong học trình. Buổi học đầu tiên thuận buồm xuôi gió. Khi đọc các trang sinh viên viết về cuộc đời họ thì tôi thấy khả năng viết tiếng Anh của họ không đồng đều chút nào. Vài ba người viết toàn hảo, đa số viết tạm được, và số còn lại viết dở lắm. Tôi biết là tôi sẽ phải để ý đến nhóm sau cùng này rất nhiều vì họ chưa nắm vững cú pháp và còn phạm nhiều lỗi chính tả. Qua những trang họ viết, tôi được biết họ làm nhiều công việc khác nhau để mưu sinh. Họ đều hy vọng khi tốt nghiệp SAC thì nghề nghiệp họ sẽ có cơ hội thăng tiến.
Kinh nghiệm một thập niên dạy Anh văn của tôi tại Đại học Sài Gòn đáng giá ngàn vàng! Bao nhiêu “tuyệt chiêu” tôi đều mang ra sử dụng để giúp sinh viên SAC tránh được những lỗi lầm tối kỵ trong khi viết luận văn, như dàn bài lỏng lẻo dẫn đến sự thiếu mạch lạc (lack of cohesion), các câu văn tràng giang không chịu ngừng nghỉ (run-on sentences) vì người viết chưa thạo cách chấm câu (punctuation), các câu cụt ngủn vì thiếu chủ từ hoặc động từ (fragments), lỗi cú pháp và chính tả (syntactical and spelling errors) gây ra vì cẩu thả, vân vân.
Quả thực, tôi đã dùng khá nhiều mực đỏ để chấm bài của họ. Sau khi trả lại các bài luận văn mà tôi đã chấm và sửa lỗi cho họ, tôi đều có phần tóm lược các lỗi chính và nhắc nhở họ cách tránh những “cạm bẫy” (pitfalls) ấy. Cuối khóa, tôi rất hài lòng với sự tiến bộ của học trò, và hãnh diện là không một người nào bị điểm “D” hay “F” trong lớp ra quân này của tôi.
Người cựu chiến binh Mỹ thầm lặng trong lớp
Sau khi nộp bài thi cuối khóa cho tôi thì đa số sinh viên lặng lẽ ra về. Một vài người nói lời cảm ơn và khen ngợi lối dạy học vui tươi của tôi. Người cuối cùng lên nộp bài là một sinh viên Mỹ trắng đứng tuổi có khuôn mặt phong sương, luôn luôn ngồi ở một góc cuối lớp và chẳng bao giờ lên tiếng cả.
Một cách chậm chạp, ông ta nói với tôi: “Giáo sư Đàm ơi, trước khi chúng ta chia tay, tôi xin ông nhận lời tạ lỗi muộn màng của tôi. Thú thực, tôi không có cảm tình với ông chút nào lúc khóa học bắt đầu vì ông là người Việt. Tôi là một cựu quân nhân Mỹ phục vụ tại Việt Nam, có bạn bè và thân nhân chết trận bên ấy. Tôi cũng lầm to khi cho rằng một người ngoại quốc như ông thì không thể nào dạy người Mỹ chúng tôi viết luận văn bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi được.”
Ngỡ ngàng và xúc động, tôi vội đáp lời ông ta: “Ông Jones, ông không cần phải tạ lỗi gì với tôi đâu, tất cả chỉ là sự hiểu lầm mà thôi. Tuy nhiên, tôi rất xúc động vì những lời nói thành thực và tử tế của ông.” Chúng tôi bắt tay và chúc lành cho nhau khi giã từ. Trên đường đi bộ ra bãi đậu xe, tôi còn nghe văng vẳng bên tai những lời nói bộc trực ấy của ông Jones. Mắt tôi đã nhòa lệ lúc nào chẳng hay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét