Ở
miền Nam, khi ghi trong Hiến pháp năm 1967 là “Nền giáo dục Đại học
được tự trị,” các nhà làm chính sách giáo dục đã xác nhận sự cần thiết
phải hội nhập với thế giới dân chủ, nhất là theo mô hình của Mỹ. Nhưng
việc trao cho đại học quyền tự trị, nhất là về quản trị nhân viên và sử
dụng ngân sách, từ những định chế lâu đời như Bộ Giáo dục, Tổng Nha Công
vụ và Tổng Nha Ngân sách đòi hỏi những sự thay đổi hay điều chỉnh thích
hợp về luật lệ và thủ tục, do đó cần phải có thời gian thực hiện theo
một tiến trình chuyển tiếp..
Dù sao trong tiến trình tự trị hóa, Đại học miền Nam đã được hưởng
nhiều ưu đãi. Các đề nghị của Hội đồng đại học về nhân viên hay ngân
sách thường được chính phủ chấp thuận mau chóng ngoại trừ những quyết
định thật quan trọng. Do sự tín nhiệm sẵn có đối với lãnh đạo đại học,
sự chấp thuận của chính phủ được căn cứ vào sự hợp lệ về hành chánh và
khả năng ngân sách hơn là xét về nhu cầu và giá trị của đề nghị. Về mặt
học vụ, sự chấp thuận của Bộ Giáo dục lại càng có tính hình thức hơn nữa
vì không khi nào Bộ ra chỉ thị hay can thiệp vào việc ấn định nội dung
các môn học, thể lệ thi cử và chấm thi, các công tác nghiên cứu và giảng
dạy, miễn là không trái ngược với ba nguyên tắc căn bản là nhân bản,
dân tộc và khai phóng. Chính sách uyển chuyển này đối với lãnh đạo đại
học đưa đến thái độ mặc nhiên chấp thuận cho đại học thử nghiệm sáng
kiến mới để rốt cuộc chính thức công nhận kết quả của thử nghiệm. Một
thí dụ: khoảng giữa năm 1965, tôi được biệt phái từ Đại học Văn khoa
Sài-gòn sang Viện Đại học Vạn Hạnh trong một năm để giúp tổ chức và soạn
thảo chương trình cử nhân cho Phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn.
Sau khi hội ý với Thượng Tọa Viện trưởng Thích Minh Châu và được sự đồng
ý của Thượng Tọa, tôi bắt đầu soạn thảo các môn học theo hệ thống tín
chỉ (credits) thay thế cho các chứng chỉ cử nhân nhưng vẫn duy trì chế
độ niên khóa. Tôi trở về Đại học Sài-gòn khi xong công việc và được biết
dự án cải cách dung hòa cũ-mới này sau đó được Hội đồng Viện hoàn chỉnh
và lần lượt áp dụng vào các Phân khoa khác. Điều đáng chú ý là khi Viện
ĐH Vạn Hạnh trình dự án này lên Bộ Giáo dục xin ý kiến, Bộ không chính
thức chấp thuận hay bác bỏ, nhưng các văn bằng cử nhân của Đại học Vạn
Hạnh đều được Bộ công nhận. Những buổi lễ phát bằng tốt nghiệp cho sinh
viên luôn luôn có sự hiện diện của Bộ trưởng Giáo dục. Từ đầu thập kỷ
1970, hệ thống tín chỉ chính thức được áp dụng ở các Đại học Cộng đồng
và Đại học Bách khoa Thủ đức của chính phủ.
Sự nảy nở các đại học cộng đồng (hay đại học sơ cấp hai năm) từ 1971 đáp
ứng nhu cầu thực tế về nhân lực của địa phương và thể hiện tinh thần
dân chủ vì có sự tham gia trực tiếp về tài chính và quản lý của địa
phương đó. Sự thành lập Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1973 được phỏng
theo mô hình California Polytechnic State University đích thực là một
đại học đa khoa, không chỉ gồm những phân khoa thiên về nghiên cứu mà
bao gồm cả các ngành thực tiễn như nông nghiệp, kỹ thuật cơ khí, điện
tử... là những ngành cần thiết cho nền kinh tế tại Đô thành và các tỉnh
lân cận. Một đặc điểm trong chương trình đại học cộng đồng hồi đó là
chương trình giáo dục bổ túc dành cho những sinh viên do hoàn cảnh chiến
tranh nên thiếu căn bản vững chắc để theo các lớp đại học. Chương trình
này cũng nhắm vào những quân nhân giải ngũ, nhất là khi đất nước hòa
bình, cần được cập nhật và bổ túc kiến thức sau một thời gian bị gián
đoạn việc học. Như vậy, việc cải cách giáo dục đại học theo xu hướng
thực dụng và dân chủ hóa đã thật sự bắt đầu từ năm 1971.
Tự do học thuật và phát triển con người
Mặc dù một phái đoàn của Đại học Michigan đã đến Sài-gòn từ năm 1954 để
giúp cải tổ chương trình đào tạo cán bộ ở Học viện Quốc gia Hành chánh,
ảnh hưởng giáo dục đại học Mỹ chỉ bắt đầu ba bốn năm sau và đến những
năm đầu thập kỷ 1970 mới có sự tăng tốc trong tiến trình đổi mới, với sự
nâng cấp một số trường Cao đẳng Chuyên nghiệp, sự ra đời của một loạt
Đại học Cộng đồng và của trường Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Thế hệ trí
thức theo truyền thống cũ của Pháp cũng ý thức được nhu cầu đổi mới và
lợi ích của tự trị đại học trong công cuộc phát triển xứ sở nên cũng sẵn
sàng chuyển hướng theo triết lý giáo dục của Mỹ. Tuy nhiên, mọi nỗ lực
dân chủ hóa và thực tiễn hóa giáo dục đại học không có đủ thời gian
thành tựu khi chế độ Cộng Hòa ở miền Nam sụp đổ năm 1975.
Tự trị học vụ trong qui chế tự trị đại học thường bị lẫn lộn với một
chức năng liên hệ là tự do nghiên cứu và giảng dạy nay đã trở thành một
truyền thống đại học ở các nước dân chủ. Đến đây, cần phải nhắc đến
triết lý giáo dục của Đại học Humboldt nhấn mạnh vào sứ mệnh của trí
thức đại học là phát triển toàn diện con người bằng khoa học và văn hóa,
và điều kiện của phát triển là tự do nghiên cứu, sáng tạo và giảng dạy.
Phát triển con người bằng khoa học là tinh thần khai phóng, phát triển
con người bằng văn hóa là tinh thần nhân bản. Đó là hai nguyên tắc chính
yếu đã được đưa vào triết lý giáo dục các cấp ở miền Nam cùng với
nguyên tắc thứ ba là tinh thần dân tộc, theo thứ tự “nhân bản, dân tộc,
khai phóng,” phù hợp với nhu cầu và sứ mệnh của một quốc gia đang mở
mang muốn vươn lên và hội nhập thành công trong cộng đồng thế giới.
Giáo dục nhân bản lấy con người làm cứu cánh nên chú trọng vào việc xây
dựng đạo làm người, phát triển mầm mống tốt ở con người, phục vụ nhân
sinh để tiến đến một xã hội hoàn thiện, đúng như đã được định nghĩa
trong sách Đại học của Nho giáo (Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại
thân dân, tại chỉ ư chí thiện). Đạo Nho có những giáo điều phong kiến
lỗi thời nhưng những nguyên tố để đào tạo mẫu người lý tưởng như nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín đều có giá trị phổ quát và vĩnh viễn. Người “quân
tử” hay “kẻ sĩ” thời phong kiến khác với người “trí thức” thời dân chủ
về trách nhiệm cụ thể, nhưng hoàn toàn giống nhau về tư cách đạo đức và
tinh thần trách nhiệm. Giáo dục dân tộc nhằm bồi dưỡng tinh thần hiếu
hòa nhưng nhiệt tình yêu nước của giống nòi Hồng Lạc qua hơn hai nghìn
năm lịch sử, bảo tồn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa
dân tộc. Tinh thần dân tộc được thể hiện ngay sau khi Nhật đảo chính
Pháp ngày 9 tháng Ba 1945 và trao trả độc lập cho chính quyền Bảo
Đại/Trần Trọng Kim: nền giáo dục Việt Nam lập tức được Việt hóa với
chương trình Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập. Giáo dục khai phóng tiếp thu những tri thức khoa học, kỹ
thuật và tinh hoa văn hóa của các nước Tây phương một cách không định
kiến. Rút kinh nghiệm mất nước vì chính sách tự cô lập với thế giới của
vua chúa nhà Nguyễn, giáo dục khai phóng cũng du nhập những tư tưởng mới
về triết học và chính trị, chuẩn bị cho học sinh sau khi tốt nghiệp
tiểu học hay trung học có điều kiện trở thành những công dân hữu ích cho
xã hội.
Tinh thần khai phóng được thể hiện đầy đủ nhất ở Đại học qua sự thành
lập các trường đại học mới, bổ sung tính chất nghiên cứu hàn lâm bằng
khuynh hướng thực dụng để gia tăng khả năng phát triển kinh tế và công
nghệ hóa miền Nam. Trong hai năm đầu, miền Nam mở thêm hai đại học, một
công là Đại học Huế và một tư là Đại học Đà-lạt, cùng thành lập trong
năm 1957; từ 1964 đến 1972 có thêm một đại học công là Đại học Cần Thơ
(1966) và năm đại học tư là ĐH Vạn Hạnh (1964), ĐH Phương Nam (1967), ĐH
Hòa Hảo (1970), ĐH Cao Đài (1971) và ĐH Minh Đức (1972) (* Xin xem Ghi Chú). Sự gia tăng
con số đại học tư—tổng cộng sáu đại học tư đều do bốn tôn giáo chính ở
Việt Nam thành lập—cho thấy một đặc tính dân chủ ở miền Nam, mặc dù sự
phát triển tự do này có vẻ biểu hiện nhu cầu xác lập vai trò và ảnh
hưởng của mỗi tôn giáo trong xã hội hơn là nhu cầu thật sự về giáo dục
đại học. Một đặc điểm khác của tinh thần khai phóng là quyền tự do
nghiên cứu, sáng tạo và giảng dạy của các giáo sư. Các chứng chỉ, văn
bằng và các môn học vẫn phải được Bộ Giáo dục duyệt y, nhưng nội dung
các môn học và phương pháp giảng dạy đều do mỗi giáo sư tự ý quyết định.
Đáng tiếc là do tình hình chiến tranh, các hoạt động tự do học thuật này
không phát triển được đến mức độ cao như mong đợi. Quả thật các giáo
sư Đại học miền Nam được tự do nghiên cứu và giảng dạy, nhưng họ lại
thiếu điều kiện để phát huy khả năng của họ. Trước hết là sự thừa kế
truyền thống đại học cũ của Pháp từ thời Đại học Đông Dương. Trong những
năm đầu chuyển tiếp từ 1954, Đại học Sài-gòn còn giảng dạy bằng tiếng
Pháp ở các Phân khoa, trừ trường Văn Khoa, Cao đẳng Sư Phạm. (Ở trường
Luật, nhờ những nỗ lực đặc biệt của GS Khoa trưởng Vũ Quốc Thúc và các
đồng nghiệp của ông như Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Cao Hách, việc giảng dạy bằng
tiếng Việt đã thực hiện được từ niên khóa 1955-56.)[3] Ngay cả khi đã
hoàn toàn Việt hóa, Đại học miền Nam vẫn theo mô hình cũ của Pháp về tổ
chức học theo năm và thói quen giảng bài hay phát bài cho sinh viên học
thuộc lòng, trừ một số bộ môn khoa học như Toán và Vật lý. Giáo sư ít có
những công trình nghiên cứu riêng, giữ nguyên bài giảng hàng năm hoặc
chỉ thêm bớt đôi chút, không hoặc ít hướng dẫn cho sinh viên đọc sách
tham khảo và thảo luận trong lớp học. Điểm bài thi cuối năm cao hay thấp
phần lớn là tùy theo mức độ thuộc bài của sinh viên. Cho đến những năm
cuối thập kỷ 1960, truyền thống cũ mới bắt đầu được thay đổi do sự trở
về nước của một số giáo sư sau thời gian du học hay tu nghiệp ở những
quốc gia ngoài hệ thống của Pháp như Anh, Đức, Úc, Tân-Tây-Lan, Nhật và
Hoa Kỳ. Thật vậy, số người đậu tiến sĩ ở những nước này về Việt Nam dạy
học gia tăng từ những năm giữa thập kỷ 1960, nhưng trách nhiệm lãnh đạo
về học vụ vẫn ở trong tay thế hệ chịu ảnh hưởng của Pháp, vừa có thâm
niên vừa chiếm đa số. Hệ thống giáo dục Đại học vì thế vẫn còn khá bảo
thủ. Sự kéo dài tình trạng chuyển tiếp được thấy rõ ở Đại học Y khoa vào
những năm cuối cùng: thành phần giảng huấn gồm các giáo sư Việt, Pháp
và Mỹ, nhưng một số giáo sư người Việt khi giảng dạy vẫn pha lẫn tiếng
Pháp và các bài giảng được viết bằng Pháp văn, đem đánh máy và in ronéo
cho sinh viên học thuộc lòng để làm bài thi cuối năm.
---------------------------------------------------------------------------------
(*) Ghi chú của người đăng bài này : "Từ 1964 đến 1972 có thêm một đại học công là Đại học Cần Thơ (1966) và năm đại học tư là ĐH Vạn Hạnh (1964), ĐH Phương Nam (1967), ĐH Hòa Hảo (1970), ĐH Cao Đài (1971) và ĐH Minh Đức (1972)" Tác giả đã có một vài nhầm lẩn về năm thành lập của các đại học tư ở miến Nam VN vào trước năm 1975. Đại Học Phương Nam được thành lập vào năm 1974 thay vì năm 1967. Đại Học Minh Đức, Hòa Hảo, và Cao Đài đồng thành lập vào năm 1970. Thêm nửa, hai đại học tư bị tác giả bỏ sót là Tri Hành và Cửu Long, được phép thành lập vào năm 1974.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét