khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Hai, 18 tháng 5, 2020

Thầy Cũ, Ơn Xưa - Tác giã Võ Minh Lý


Tục ngữ Việt Nam mình có câu: “Không thầy đố mầy làm nên”. Đúng thiệt, nên tôi không dám dông dài. Có điều là chuyện của tôi đặc biệt hơn. Tôi đến với Thầy Phạm Đình Tiếu ở Trường Hồ Ngọc Cẩn như là một cơ duyên. Thầy trao cờ cho tôi phất. Nhờ Thầy mà năm 1966, tôi vừa khỏi phải thi Tú Tài II mà lại còn được học bổng đi Mỹ.
     
Thầy Tiếu bắt đầu dạy tôi môn Địa lý nửa năm sau của lớp đệ tam (1963 – 1964).Tôi vốn thích địa lý từ nhỏ nên chưa hề chán học giờ này với các thầy cô khác bao giờ. Gặp Thầy Tiếu, với cách dạy hào hứng của Thầy, tôi càng mê môn Địa lý hơn.
     
Có bạn nào còn nhớ gió Foehn là gì không? Cái thứ gió thổi ngược từ trong đất liền ra biển, hay là từ trên núi xuống đồng bằng ấy mà. Vừa khô ran, vừa nóng rát da luôn. Miền Trung Việt Nam mình thì gọi nó là gió Lào. Ai ở vùng Nam California thì biết nó là Santa Ana wind. Tôi đã say sưa nghe Thầy Tiếu đi tới đi lui trong lớp nói về thứ gió này ở châu Âu, tại sao nó lại là gió nóng để rồi sau này, mỗi lần được hưởng nó là tôi lại nhớ tới Thầy.
     
Rồi các bạn có biết tại sao mình bay từ Việt Nam qua Mỹ thì nhanh hơn là mình bay từ Mỹ về Việt Nam không? Nhanh hơn cả một, hai tiếng đồng hồ đó nha! Đó là nhờ luồng “Jet Stream” mà Thầy Tiếu đã dạy năm đệ tam í. Từ khi có máy bay phản lực bay ở cao độ 10-15 ngàn mét (tức là 30-45 ngàn feet), người ta mới khám phá ra luồng gió này. Vì vậy mà ngành khí tượng mới đặt tên cho nó là Jet Stream. Nó thổi cùng chiều với vòng quay của trái đất, tức là từ Tây sang Đông và nó là tác nhân gây ra đủ thứ rắc rối về thời tiết trên đời. Nghe lùng bùng lỗ tai chưa nè?
     
Bạn nào chê học địa lý hình thể khô khan? Hổng có tôi trong đó đâu nha! Thầy Tiếu làm tôi mê nào là núi đá hoa cương, nào là đồng bằng do sa thạch từ đáy biển trồi lên, nào là các đảo do núi lửa tạo thành. Đừng nghĩ bậy nhe! Chưa kể là nhờ có các hiện tượng thời tiết xâm thực lên đất đá nên chúng ta mới có những kỳ quan thiên nhiên như các hẻm vực hay hang động khắp nơi.
     
Quý bạn thông cảm!
       
Tôi có duyên với địa lý từ hồi bảy, tám tuổi lận! 
       
Khoảng năm 1955, 1956 thì Ba tôi đưa gia đình về quê ở Ba Tri- Bến Tre sau khi Ông nội tôi qua đời. Từ cuộc sống thành thị, tôi bỡ ngỡ khám phá cuộc sống nông thôn. Ông nội tôi lúc sinh thời là hương chức trong làng An Bình Tây. Tôi khám phá ra trên án thư của ông là một tập họa đồ vẽ tay bằng mực tàu. Nét vẽ và chữ viết rất sắc sảo gây ấn tượng mạnh trong cái đầu còn như tờ giấy trắng của tôi. Những địa danh lạ tai làm tôi thắc mắc và tò mò tìm hiểu. Từ làng An Bình Tây tôi dò ngón tay qua các làng lân cận như An Đức, An Hòa. Từ quận Ba Tri tôi lật qua các quận khác trong tỉnh Bến Tre như Giồng Trôm, Bình Đại. Rồi tự nhiên tôi tìm được sự liên hệ giữa khoảng cách trên bản đồ và khoảng cách thật sự ngoài đời…
         
Có ai còn nhớ tỉ lệ xích không? Nó đó! Rồi thì phương hướng, kim nam châm và la bàn. Hồi đó đám con nít trong xóm phục lăn khi tôi chẻ một cọng rơm làm hai theo chiều dọc rồi đặt cây kim may lên đó. Tôi cho nó nổi trong tô nước rồi chỉ tụi nó đâu là hướng Bắc và suy ra các hướng khác cho tụi nó hết cãi luôn.
     
Kịp đến khoảng giữa năm 1958 thì Ba tôi dắt gia đình trở lên Sài-gòn, định cư ở vùng Cầu Sơn, cách ngã ba Hàng Xanh một đỗi không xa. Lúc học lớp nhứt cho tới năm đệ ngũ, tôi đi học bằng xe buýt vàng hay xe buýt xanh. Ngày nghỉ sau khi phụ Má tôi bán bánh mì xong là tôi ra leo lên xe buýt đi chơi. Hồi đó học sinh đi đâu cũng chỉ tốn có một đồng. Từ ngã ba Hàng Xanh tôi đi ra trạm chánh ở Bùng binh Sài-gòn rồi đổi xe đi mút chỉ đến cuối mỗi lộ trình. Chữ “tuyến đường” mới có sau này thôi. Xe buýt vàng thì chạy lòng vòng các lộ trình Thị Nghè – Bà Chiểu – Chi Lăng - Phú Nhuận- Ngã tư Bảy Hiền. Xe buýt xanh thì từ Sài-gòn túa ra các hướng đi Cây Gõ, đi Gò Vấp, đi Phú Nhuận, đi Lăng Cha Cả...Đó, địa lý nó thấm vô máu tôi như vậy đó!
     
Qua năm đệ tứ tôi có được xe đạp riêng để đi học luyện thi Trung học Đệ nhất cấp thì tôi khám phá thêm những con đường ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định và những năm tiếp theo tôi còn dám đạp xe lên tới Gò Vấp, Quang Trung và Biên Hòa nữa kìa! Cái máu phiêu lưu bắt đầu từ thuở ấy!
     
Thành ra khi gặp lại Thầy Tiếu năm đệ nhất (1965 – 1966) thì tôi mừng lắm. Năm ấy Thầy dạy cả hai môn Sử và Địa. Tôi say mê những bài giảng của Thầy, nhất là những bài về địa lý chính trị và nhân văn. Trừ lúc đầu giờ đứng trên bục viết dàn bài, Thầy Tiếu thích đi tới đi lui hay ngồi tựa vào cạnh một bàn học trò để giảng bài. Thầy thích mặc áo sơ-mi ca-rô ngắn tay, tóc húi cua, tiếng nói to, giọng miền Trung nhưng không nặng nên dễ nghe. Thầy đi tới đâu là tôi ngoảnh cổ theo Thầy. Tôi say sưa nhìn cánh tay của Thầy đưa lên xuống hay đưa qua lại kèm với bàn tay lúc nắm lúc mở để diễn tả những điều Thầy muốn truyền đạt. Thầy hay gọi học trò bằng “mi”.

- “Này, tụi mi biết không! ở xứ người ta nửa đêm đèn đỏ mà xe vẫn ngừng lại chờ đèn xanh mới đi, kỷ luật tự giác đến mức như thế đó!”
      
Thầy Tiếu lúc ấy chưa xuất ngoại lần nào. Thầy tốt nghiệp từ Trường Đại học Sư phạm nhưng Thầy khoe là quen biết nhiều giáo sư ở Đại học Văn Khoa Sài-gòn, như Tiến sĩ Quách Thanh Tâm tốt nghiệp ngành Địa lý ở Pháp về…Tôi say mê lắng nghe Thầy kể chuyện ngoại quốc để mà ước, để mà mơ...
     
Tôi cảm thấy như là trong mỗi bài giảng, Thầy Tiếu muốn nhắn nhủ và tâm tình với học trò về những mơ ước của Thầy. Khi được biết Thầy đã ra đời đi dạy, đã có vợ mà vẫn còn học lên nữa thì tôi phục lắm. Đúng là một ông thầy mẫu mực cho học trò noi gương!
     
Ngay cả môn Sử khô khan Thầy Tiếu cũng làm cho những bài học có hồn. Thầy liên hệ những sự kiện với giai thoại cho học trò dễ nhớ. Cái nhìn chung là Sử và Địa chẳng ăn nhậu gì với nhau mà sao ghép lại làm khổ học trò? Tôi vỡ lẽ ra khi nghe Thầy giải thích:

- “Tụi mi phải nhìn Sử, Địa như ri: Cả hai đều nghiên cứu về con người. Sử nghiên cứu con người trong phạm trù thời gian còn Địa thì nghiên cứu con người trong phạm trù không gian. Những diễn biến lịch Sử trong Đệ nhị thế chiến đã thay đổi bản đồ thế giới như thế nào, tụi mi thấy đó!”
        
Cái duyên địa lý của tôi với Thầy Tiếu lên cao thêm một bậc khi gần cuối niên học 1965-1966. Năm đó bỗng dưng rộn ràng chuyện Bộ Giáo dục tổ chức kỳ Thi đua Trung học toàn quốc. Các trường công, tư náo nức chọn gà ra sân đấu. Gà được chọn theo tiêu chuẩn là: Đứng hạng nhất, nhì, ba toàn năm học đệ nhất trong lớp và đứng hạng nhất cả hai lục cá nguyệt cho môn đi dự thi. Hội đồng giáo sư Trường Hồ Ngọc Cẩn chọn ra được mấy con gà, trong đó có Nguyễn Lê Anh đi thi Toán và Lý-Hoá, còn tôi thì đi thi Sử-Địa.(Sau này tôi được biết thêm là có một gà HNC chạy lạc sang bên Petrus Ký năm đệ nhất, đó là Ngô Kim Bảng lớp Pháp văn. Bảng đi thi Toán, Lý-Hóa cho Petrus Ký).Gà đi thi môn nào thì giáo sư dạy môn đó chịu trách nhiệm o bế, kèm cặp. Tôi đã nghe phong thanh tin này rồi mà khi Thầy Tiếu vào lớp chính thức thông báo, trong bụng tôi vẫn cứ đánh lô tô nhưng chắc cái lỗ mũi của tôi phồng dữ lắm. Thấy tôi lúng ta lúng túng, Thầy cười:

- “Sao mi run mà mắt sáng rỡ hỉ? Ráng lên, cuối tuần này mi bắt đầu phải đến nhà tao học thêm.”
Tôi không nhớ Thầy xưng hô với lớp là gì, riêng tôi thì vẫn nhớ chữ “tao” mà Thầy xưng với tôi. Tôi ngầm hiểu là được Thầy cưng. Tôi ví mình như là đệ tử ruột của sư phụ trong chuyện kiếm hiệp.
     
Mà tôi được cưng thiệt.Thầy Tiếu trao cho tôi nhiều thứ bửu bối lắm nha! Về Sử, Thầy đưa cho một số tài liệu mà Thầy dặn là không được khoe với người ngoài. Thầy đoán là đề thi môn Sử nhắm vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi được đọc những sách và tài liệu về Quốc Dân Đảng ở Việt Nam, về ông Nguyễn Hải Thần, về phong trào Việt Minh...Tài liệu nhiều cái quá sức hiểu biết của tôi lúc ấy nên bài thi thì coi như trúng tủ nhưng mà tôi không đủ sức làm, và cũng không có thí sinh nào làm nổi nên môn Sử năm ấy không có giải thưởng nào.
     
Về Địa, tôi như bị hớp hồn với cuốn bản đồ Atlas của Rand McNally mà Thầy cho mượn. Tôi mê mẩn chở sách về, trong lòng sướng rơn lên. Bìa nó cứng, màu đỏ, bề ngang hơn hai gang tay, bề dài hơn ba gang tay, bề dầy gần ba đốt lóng tay, nặng chắc phải vài kí lô. Tôi nâng niu, chăm chút nó trong lòng khi mở ra học. Những lời Thầy giảng như càng rõ thêm khi mở sách ra. Ai nhìn bản đồ thấy nó chi chít rối mù chứ tôi thì nhìn vô càng thêm sáng ra. Những màu sắc, những ký hiệu, ngay cả độ lớn nhỏ của mỗi địa danh đều được sắp xếp có hệ thống để cung cấp thông tin. Đối với tôi, bản đồ là một vật sống chứ không phải vô hồn. Cuốn Atlas có đủ loại bản đồ trong đó, về hình thể, về chính trị, về dân số, về tài nguyên, v.v...
     
Trước khi đi thi một tuần, Thầy Tiếu dặn dò tôi tập trung vào ba cặp quốc gia: Mỹ và Liên Xô, Trung Hoa và Ấn Độ, Anh và Nhật mà Thầy nghi là họ sẽ cho trong một đề tổng hợp. Thầy giải thích và phân tích những điểm tương đồng và dị biệt trong mỗi cặp và dặn tôi ráng nhớ vẻ các bản đồ để chứng minh lý luận của mình. Đề thi Địa năm đó là: So sánh Anh quốc và Nhật Bản. Tôi trúng tủ!
     
Kỳ thi  đua Trung học Toàn quốc năm 1966 được tổ chức tại Trường Trưng Vương trong tháng năm, khoảng hai tháng trước kỳ thi Tú Tài II phổ thông. Thí sinh khắp nơi trên toàn quốc về dự tranh. Mỗi môn thi một ngày, qui định cho giờ thi là từ 8 giờ sáng đến 2 giờ trưa.Thí sinh chỉ được mang theo viết, mực (cấm xài viết nguyên tử), thước kẽ, viết chì và thức ăn nhẹ. Giấy làm bài thi và giấy nháp do Bộ cung cấp.
     
Khác với ngày thi môn Sử tôi chỉ làm bài được vài tiếng đồng hồ rồi tắt tịt, ngày thi môn Địa tôi làm bài muốn hụt hơi luôn. Đến trưa thì phải vừa viết vừa nhai bánh mì cho kịp giờ. Sau khi soạn ra dàn bài, tôi phải canh giờ để làm từng phần. Cái kiểu viết vài ba chữ lại phải chấm mực làm tôi sốt ruột không ít, mà phải chịu vậy. Tôi đã ngồi liền tù tì sáu tiếng đồng hồ, xài khoảng mười trang giấy trong đó phải vẻ năm, sáu cặp bản đồ minh họa. Tối hôm ấy tôi trình lại với Thầy Tiếu diễn tiến hai ngày đi thi. Thầy lắc đầu bài thi môn Sử, chê Bộ cho bài quá cao. Thầy gật gù bài thi môn Địa của tôi làm, mừng cho tôi trúng tủ. Lúc tôi chào ra về, Thầy vổ vổ vai tôi: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên hỉ? Thôi mi về học luyện thi tiếp với bạn đi!”
     
Một buổi sáng đẹp trời tin mừng đến tai tôi nhưng tôi đâu dám tin liền. Tin là sáng hôm ấy trên Đài Phát thanh Sài-gòn, Bộ Giáo dục thông báo kết quả Kỳ Thi đua Trung học Toàn quốc. Sáng sớm nào tôi cũng mắc bận phụ Má tôi sắp soạn các thứ rồi đẩy xe bánh mì ra Ngã ba Hàng Xanh trước khi đi học nên tôi đâu có nghe tin tức bao giờ. Trong lúc sắp hàng vô lớp là tôi đã nghe tiếng xầm xì: “Thằng Lý lùn trưởng lớp mình đạt giải nhứt Địa lý tụi bây ơi! Tao nghe ra-đi- ô sáng nay.” Nhiều đứa không tin, mà tôi cũng không dám tin dù nghe có khoái cái lỗ tai thiệt. Cho tới khi Thầy Tiếu bước vô lớp, miệng cười tay chỉ mặt tôi: “Thằng Lý, mi ăn mừng đi. Gà của Trường Hồ Ngọc Cẩn thắng giải nhất môn Địa lý! Sướng chưa hỉ?” Tôi chỉ biết đứng dậy lúng búng nghẹn ngào cám ơn Thầy: “ Dạ, em có làm gì đâu. Mọi chuyện nhờ Thầy hết mà!” Giây phút thăng hoa ấy thật tuyệt vời!
     
Khoảng mười ngày sau thì tôi được kêu lên văn phòng. Thầy Hiếu, Hiệu Trưởng HNC, bắt tay chúc mừng và trao thư mời của Bộ đến Ba Má tôi. Bộ Giáo dục cũng mời Thầy Hiệu Trưởng và Thầy Tiếu tham dự buổi lễ trao giải thưởng tổ chức tại Trường Quốc gia Âm nhạc vào giữa tháng sáu năm 1966. Tôi hãnh diện lắm, năn nỉ Má tôi nghỉ bán một buổi đi dự để tôi khoe Thầy ruột của mình. Ba tôi thì khỏi nói, ổng mua được tờ báo có đăng tin của đài phát thanh đi khoe tùm lum trong xóm.
     
Tôi vẫn nhớ mãi cái ngày trọng đại ấy vì mấy thưở mà được đi taxi. Thầy Tiếu gặp Ba Má tôi thì “ Chúc mừng hai bác!”. Thầy Hiếu trông rất bệ vệ, tươi cười. Tôi đâu khoảng người thứ tám lên lãnh thưởng, như đi trên mây. Tôi nhận được Giấy Ban Khen và một bao thơ. Kết quả chung là có chừng hơn mười giải thưởng, trong đó tôi biết chắc là ngoài tôi thì còn một giải nhất nữa cho môn Vạn vật. Má tôi chấm cô nàng giải nhất này, tên Hương, mà số không duyên nợ nên tôi chẳng bao giờ gặp lại.
     
Về nhà mở bao thơ ra thì ngoài số tiền thưởng hai ngàn đồng, tôi được một ngạc nhiên lớn khác: Chứng chỉ Tú Tài II. Vậy là tôi đậu luôn Tú Tài II rồi sao? Tôi tức tốc đạp xe qua nhà Thầy Tiếu để hỏi thực hư. Thầy cũng ngớ ra, chưa thấy cái chứng chỉ nào như vậy. Gì đâu mà Ban: Địa lý; Hạng: Đương nhiên!. Chứng chỉ của người ta thì Ban: A, B, hoặc là C; Hạng thì Ưu, Bình, Bình thứ hoặc là Thứ. Tôi hoang mang cả mấy tuần cho tới khi biết chắc ăn là coi như mình được miễn thi Tú Tài II phổ thông. Với cái chứng chỉ Tú Tài không giống ai ấy, tôi đã nghe lời bạn bè nộp đơn xin học bổng và đã được chọn đi du học ở Mỹ năm 1967.

Tháng sáu năm 2016 này là đúng 50 năm ngày tôi thi đậu Trung học Toàn Quốc. Thầy Tiếu nay không còn nữa để tôi thăm hỏi. Nghe nói là sau cuộc đổi đời thì Thầy có cơ hội đi Pháp, lấy được bằng Tiến sĩ Địa lý bên đó rồi đi dạy cho tới khi Thầy mất.
     
Tôi viết bài này như là một nén hương lòng để tưởng nhớ và mãi mãi ghi khắc công ơn dạy dỗ đặc biệt của Thầy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét