Người Thái ở Việt Nam có khoảng hơn 1 triệu người, chủ yếu sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc Như: Lai Châu, Sơn La, Điện Biên Hoà Bình, Thanh Hoá và Nghệ An.
Tết của người
Thái
Người Thái ở Việt Nam có khoảng hơn 1 triệu người, chủ yếu
sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc Như: Lai Châu, Sơn La, Điện Biên Hoà Bình,
Thanh Hoá và Nghệ An. Đối với người Thái nhiều vùng, thường coi ngày 25 tháng
Chạp (âm lịch) là phiên chợ cuối cùng, lớn nhất trong năm. Mọi người xuống chợ
mua sắm tết, sau đó là nghỉ ngơi chơi Tết. Sáng ngày 27 hoặc 28, già làng hoặc
Trưởng thôn, Bản đôn đốc mọi nhà tổng vệ sinh cho cả bản. Tối 29, bắt đầu gói
bánh chưng.
Người Thái thường gói hai loại bánh chưng màu đen và màu
trắng. Để làm bánh màu đen, họ đốt rơm lên, lấy tro sạch lẫn gạo nếp rồi sàng
sẩy sạch muội tro mà vẫn giữ lại màu đen. Nhiều nơi không cho nhân thịt hành, đỗ
vào bánh vì người ta quan niệm hương vị của Tết ở trong bánh chưng chủ yếu thể
hiện ở hương vị của lá dong, và đó cũng là cái tinh tuý nhất của đất trời chủ
yếu để dâng lên tổ tiên (ma nhà).
Sáng 30 tết, các nhà luộc bánh chưng và thịt lợn. Tối 30
tết là bữa cơm tất niên, với sự góp mặt của bà con, bạn bè, rồi cả đêm người ta
thức uống rượu. Trong đêm 30 tết quy định của người Thái nhang không bao giờ
tắt. Sau lễ cúng giao thừa bằng cá, thịt, bánh, các đồ thổ cẩm, bạc nén..., nhà
nào có chiêng hay cồng thì mang Chiêng cồng ra đánh và múa hát lăm vông. Người
Thái thường có phong tục gọi hồn.
Vào tối 28, 29 hoặc 30 tết, họ thịt hai con gà, một để
cúng tổ tiên, con cũn lại dựng để gọi hồn cho mọi người trong nhà. Để gọi hồn,
thầy cúng lấy của mỗi người một chiếc áo, bó lại một đầu với nhau, vắt lên vai,
tay thầy cầm một thanh củi đang cháy, rồi mang ra đầu làng gọi hồn hai ba lần,
sau đó về chân cầu thang lại gọi một lần nữa. Xong việc, thầy cúng đích thân
buộc một sợi chỉ đen vào tay mỗi thành viên gia đình để trừ tà, sợi chỉ đó phải
để tự đứt, nếu dứt đứt thì chủ nhân dễ bị ốm hoặc gặp chuyện không
hay.
Sáng mùng một người Thái dậy sớm, múc nước luộc bánh chưng
cho mỗi người uống một ít! Các phụ nữ trong nhà hôm mùng 1 tết được đem xôi ra
quạt ở giữa gian cúng ma nhà (bình thường họ không được đến khu vực đó!). Sau đó
người ta dọn ra hai hoặc ba mâm cúng, mâm đặt trên cao là để cúng tổ tiên nhà
chồng, còn mâm thấp cúng tổ tiên nhà vợ. Cúng xong, tất cả con trai trong nhà
lui vào, để cho phụ nữ ăn trước, và chỉ duy nhất trong năm có mỗi ngày mùng 1
tết mà thôi. (hàng ngày, phụ nữ ăn cùng hoặc ăn sau đàn ông).
Bữa cơm Tết của người Thái có một món không thể thiếu, đó
là cá với các món nướng, lạp, muối chua hay nước khô... Người Kinh mồng 1 kiêng
đến nhà nhau sớm, nhưng người Thái thì sáng mồng 1 đó đi nườm nượp đến nhà nhau
chúc Tết. Họ chỉ kiêng vứt lá dong xuống gậm sàn, kiêng quét nhà vào ngày mồng 1
tết. Tối ngày mồng 1 họ làm lễ tạ ơn. Từ chiều mồng 1, thanh niên bắt đầu đi
chơi, và muốn đi chơi đến bao giờ thì đi, đến làng nào ăn uống ở làng ấy, có khi
đi đến qua cả mồng 10 tết hoặc ra rằm tháng giêng mới về. Các trò chơi khá náo
nhiệt, gồm đánh cầu lông (cầu lông gà), ném còn; khắc luống, đánh trống, cồng
chiêng và hát múa lăm vông...
Tết của Người
Mông
Tộc Mông gồm nhiều nhóm: Mông Đơ (Mông trắng), Mông Lềnh
(Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Hiện số
dân của họ khoảng 558.000 người, cư trú tập trung ở miền núi vùng cao thuộc các
tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ
An và Thanh Hóa.
Người Mông có một hệ lịch riêng, theo nhận định của các nhà
nghiên cứu, có lẽ họ tiếp thu cách tính lịch của dân tộc Di (Trung Quốc). Theo
đó, Tết của họ vào khoảng cuối tháng 11, đầu tháng 12 âm lịch của Âm Dương hợp
lịch mà ngày nay chúng ta sử dụng. Tuy nhiên, ngày nay đa số các vùng người Mông
đều ăn Tết Nguyên Đán như người Kinh, chỉ trừ một bộ phận nhỏ, chẳng hạn người
Mông ở Mộc Châu vẫn duy trì song song Tết theo hệ lịch riêng của họ.
Ngày 25, 26 tháng Chạp, người Mông bắt đầu nghỉ ngơi chuẩn
bị đón Tết. Khi đó, họ phong tất cả các công cụ sản xuất lại, ví dụ như các lũ
rốn phải làm lễ đóng lũ, cối xay ngụ tháo ra, đưa một tờ giấy bản lớn rồi làm lễ
với gà, bánh ngô, rượu...
Trước đây người Mông không gói bánh chưng. Bây giờ thì cứ
gói, nhưng bánh chưng không nhất thiết có trong cỗ Tết của họ. Với họ, ba món
không thể thiếu là thịt, rượu và bánh ngô.
Người Mông không đón giao thừa. Đối với họ, tiếng gà gáy
đầu tiên của sáng sớm mồng Một mới là cái mốc đánh dấu một năm mới bắt đầu. Tối
hoặc nửa đêm 30, người ta cúng ma nhà (tổ tiên) bằng một con lợn sống, một con
gà sống (và phải là gà trống, mà tốt nhất là gà trống tơ). Sau đó mới mang lợn
và gà đi giết thịt (nhà nào giàu có thì thịt một con lợn từ 28, 29 để ăn trước).
Thịt xong đem cúng một mâm thịt chín, rồi ăn cơm uống rượu đến khi nghe thấy
tiếng gà gáy đầu tiên.
Các nhóm Mông có phong tục hơi khác nhau nhưng về đại thể
đều rất quan trọng lúc cúng ma nhà bằng lợn và gà sống vào tối 30. Từ mồng 1 trở
đi họ mặc quần áo mới, đi hài đi chơi. Ném papao là một trong những trò chơi
ngày Tết mà người Mông rất thích; ngoài ra còn múa khốn, múa ụ, chơi cầu lông
gà, hát ống, hát dân ca, đua ngựa, bắn nỏ...
Đặc biệt, nói đến Tết của người Mông không thể không nói
đến một lễ hội gọi là hội Sải Sán hay Gầu Tào (hội cầu phúc). Một gia đình trong
làng, nếu hay đau ốm hay chậm có con thì mồng 2 đi dựng một cây nêu lớn ở bãi cỏ
đầu làng. Hội này tiếng là do một gia đình tổ chức (gia đình đó gọi là chủ nêu)
nhưng thật ra đó là một lễ hội của cộng đồng, thậm chí khi làng này dựng nêu,
làng khác cũng đến dự hội.
Hội Gầu Tào nhằm tạ ơn tổ tiên về mùa màng, súc vật; cầu
cho con cháu đông đàn. Hội có thể kéo dài 3 ngày nếu 1 năm tổ chức một lần hoặc
9 ngày nếu 3 năm tổ chức một lần. Đây là lễ hội lớn nhất của người Mông trong
năm và nó thể hiện rõ nhất những đặc trưng văn hoá Mông trong ngày Tết. Trong lễ
hội này, sau phần lễ là hát giao duyên và các trò chơi yêu thích của người Mông
như vừa kể trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét