khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014

MÊ KÔNG KÝ SỰ

Từ thượng nguồn Tây Tạng, hai mươi tập ký sự về con sông Mé Kong dẫn chúng ta qua những nơi chốn ở các quốc gia: Trung Hoa, Thái Lan, Lào, Cao Miên, và cuối cùng trở thành chín nhánh sông mang một tên Cửu Long Giang khi chảy vào miền Tây của Nam Việt Nam, rồi hợp lưu chảy vào Biển Mẹ (Biển Đông) đưa đám con NGỤY VN tha phương trên khắp các phương trời cũa thế giới.

Mời xem :

http://www.youtube.com/watch?v=UazJ39Orb00&list=PLA5B946A663A0007E

Cuối tuần, bạn Tùng dẫn chúng ta đi viếng những thắng cảnh ở Pháp trên Net

1.  Vương Cung Thánh Đường ở Strasbourg, Pháp:

    http://www.alsace-360.fr/visit/www/cathedrale-strasbourg.fr/

2. Vương Cung Thánh Đường ở Rouen, Pháp:

    http://www.360degres.net/cathedrale%20rouen/cathedralerouen.html

3. Dạo quanh kinh đô ánh sáng Paris, Pháp:

    http://www.panoramique-360.com/visite_virtuelle_paris.htm

4. Nhà thờ Notre Dame, Paris, Pháp

   http://www.panoramique-360.com/visite-virtuelle-2010/eglise-notre-dame.html

Di tích thành Cổ Loa

Thành Cổ Loa là di tích lịch sử có từ hơn 2050 năm, là di tích thứ nhì sau vua Hùng.
 
Ước nguyện là làm thế nào để đến được các di tích lịch sử từ đời vua Hùng cho đến các triều đại về sau.
 
Xin giới thiệu di tích thành Cổ Loa ở Đông Anh - Hà Nội.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2546_zps45d8c193.jpg
Hình hướng dẫn du khách vào thành Cổ Loa ở Đông Anh.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/Re-exposureof385_coloa1_zpsd62a2935.jpg
 
Sơ đồ thành Cổ Loa, nhìn thì biết thế nhưng thật ra để nhìn toàn cảnh thành Cổ Loa phải dùng máy bay trực thăng mới thấy được tổng thể của thành vì quá rộng lớn.

Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
 
Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km. Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2548_zps7469dace.jpg
Điểm đến đầu tiên khi vào thành Cổ Loa, dọc đường đông đúc nhà của phố thị là cửa Trấn Nam.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2549_zpsb7fff9d1.jpg
Miếu thờ thần trấn cửa Nam. Thành Cổ Loa có 4 miếu trấn 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2554_zpsfbfa09cb.jpg
Qua cửa Trấn Nam rẽ tay phải đến khu di tích đền thờ tướng Cao Lỗ.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2555_zps924bfb6b.jpg
 
Hình tượng tướng Cao Lỗ ở giủa hồ, tay dương nỏ Liên Châu.
 
Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là Nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2556_zps687dc738.jpg
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/Re-exposureofMUITENDONGCOLOA_zps471691ee.jpg
 
Đền thờ Cao Lỗ. Mũi tên bằng đồng, cổ vật được tìm thấy tại khu di tích thành Cổ Loa.

Cha đẻ nỏ Thần
 
Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ Liên Châu (nỏ thần), bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.
Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).
 
Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ.
Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2557_zps477edbae.jpg
Án thờ tiền sảnh, thờ Bách gia trăm họ.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2558_zps451c8805.jpg
Án thờ Cao Lỗ ở Hậu cung.

Qua đời
 
Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn.
 
Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2563_zpsc55608cd.jpg
Toàn cảnh đền thờ Cao Lỗ.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2564_zps1d0c36a0.jpg
Đền thờ Vua An Dương Vương cách đền thờ Cao Lỗ chừng 150m
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2566_zpsbb6263d9.jpg
Hồ nước trước đền thờ, một phong cảnh hữu tình nhất của thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2565_zps238a8844.jpg
Cổng chính của đền thờ vua nhìn ra hồ nước.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2567_zps7023c6a1.jpg
Qua cổng chính là cổng Tam Quan.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2570_zps4a6af86c.jpg
Hình ảnh nhìn từ chánh điện ra phía trước, thiêt kế gọn gàng, hai bên là hai nhà tả, hữu. Buổi trưa hết giờ hành chánh cửa điện đóng nên không vào bên trong điện được
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/DSCN2593_zps4d2f2cf9.jpg
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2583_zpse59174fd.jpg
Rời điện thờ, ra ngoài nhìn cảnh hồ thật nên thơ, chụp một bức ảnh góc xa nhìn về ngôi đền.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2572_zpsce730119.jpg
Dù đã trưa nhưng vẫn tiếp tục quay lại đền Cao Lỗ, phái sau đền Cao Lỗ là cung đình, nơi hội họp của An Dương Vương.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2573_zpsb9fcb294.jpg
Cổng chánh.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2574_zps494bb072.jpg
Cung điện là một tòa nhà 9 căn, cửa đóng then gài vì quá trưa không mở cửa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2576_zpsd9c876ac.jpg
Bên cạnh là miếu thờ Mỵ Nương.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2578_zps23b4c1c9.jpg
Án thờ Hội đồng.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2577_zpse34622d9.jpg
Án thờ Mỵ Nương ở Hậu cung, nơi đây âm u thấy rợn người khi lẻn vào chụp ảnh.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2579_zpseabfecc0.jpg
Một góc nhìn về chánh điện.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/DSCN2589_zps7b41ec25.jpg
Một cảnh của hồ nước trước trước đền thờ rất thơ mộng.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/DSCN2584_zps490ae392.jpg
Góc xa nhìn về ngôi đền thờ vua.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2590_zpsc66c72a4.jpg
 
                                      Hình ảnh một đoạn thành Cổ Loa.
 
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ"
 
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/250px-Thanh_co_loa1_zps1022c942.jpg
 
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2591_zps1a74ad6f.jpg 
Nhiều đoạn thành bị cắt xẻ để làm đường giao thông đi lại từ khu vực nầy sang khu vực khác do mật độ dân số tăng lên, lập thành hệ thống liên thông giửa là này qua làng khác đã phá vỡ cảnh quang của hệ thống thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2596_zps91ee23a1.jpg 
Cửa Trấn Bắc
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2595_zpsbf6a3659.jpg 
Cửa Trấn Bắc trên vị trí vòng thành thứ 3, cách trung tâm Cổ Loa 5km. được người dân nơi đây tôn tạo giữ gìn.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2601_zpsd76dd8b3.jpg
Vòng thành bị đứt nhiều đoạn. Cứ thấy giửa cánh đồng có đoạn nào cao, cây cối mọc sum sê thì đó là đoạn thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2604_zps50c9be72.jpg
Cửa Trấn Tây. Riêng cửa Trấn Đông không còn vì người dân nơi đó đã san bằng để xây dựng nhà cửa. Thật đáng tiếc.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2605_zps19527801.jpg
Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2606_zps09feffa8.jpg
Vài hình ảnh về nhánh sông Hoàng bao quanh thành Cổ Loa.
 
http://i577.photobucket.com/albums/ss214/Thanh50_2009/THANH%20CO%20LOA/ResizeofDSCN2607_zps50b0a389.jpg
Hình ảnh sông Hoàng chảy về thành Cổ Loa. Hiện nay tốc độ xây dựng khu dân cư, làng xóm trong phạm vi khu nội thành đã phá vỡ cảnh quang của khu di tích, nhà cửa xây cao tầng sát với các khu đền thờ quan trọng nhất của thành Cổ Loa.
 

NGỤY SAIGON -- Tác giả Tiểu Tử




"Ở một góc cạnh nào đó, lịch sử không phải chỉ luôn luôn là một vòng nguyệt quế dành cho người chiến thắng. Người thắng cuộc thường chỉ nói tốt cho mình nhưng trong nhiều trường hợp những người thua cuộc lại nói lên được nhiều điều chúng ta cần biết."  -- Nguyễn duy Chính

Trong ngôn ngữ thông thường miền Nam Việt Nam trước tháng tư 1975, tiếng "ngụy" nghĩa là "giả" ít thấy có ai dùng tới.

Cái gì không phải thứ thiệt, không phải thứ "chánh cống", không phải thứ "có cầu chứng tại tòa"... là người ta gọi hoạch tẹt là "đồ giả", chớ không ai gọi là "đồ ngụy" hết. Ví dụ như rượu giả, thuốc giả, vú giả, bạc giả, v.v.

Bởi vì từ ngữ hồi đó rất... thật!

Sau tháng Tư 1975, tiếng "ngụy" đã theo gót... dép râu (Xin lỗi! Chỗ này văn chương nghe chỏi lỗ tai một chút, nhưng rất... tả chân. Không thể viết "theo gót giầy" như xưa nay thường viết, vì đối tượng ở đây toàn mang dép râu cả!) quân nón cối và quân mũ tai bèo vào Nam làm cách mạng...
Sau biến cố, toàn dân miền Nam đều phải đi "học tập" ba hôm. Chính trong ba hôm đó người ta mới nghe lần đầu tiên tiếng "ngụy". Và nghe... đầy lỗ tai!

Vậy là đầu hôm sớm mai, tiếng "ngụy" được nhét vào ngôn ngữ miền Nam một cách "ngang xương", không cần phổ thông đầu phiếu! Mới đầu nghe lạ hoắc, không hiểu ý nghĩa sâu đậm của nó. Cũng chẳng có ai giải thích. Mà ví dụ có ai to gan lớn mật đặt câu hỏi thì cán bộ cũng chỉ giải thích... ngang như cua thôi!

Thành ra nhân dân miền Nam hiểu tiếng "ngụy" một cách rất... tự do, và sử dụng tiếng "ngụy" rất... rộng rãi (Được "giải phóng", có khác!). Thôi thì cái gì của miền Nam cũng đều biến thành "ngụy" ráo. Để phân biệt với "cách mạng"!.. Thằng ngụy, vợ ngụy, con ngụy, lính ngụy, chánh quyền ngụy, cơ sở ngụy, xí nghiệp ngụy, công nhân ngụy, "hàm-bà-lằng" ngụy... Và người ta nghĩ một cách rất đơn giản, rất thật thà: "Hễ thấy không có đóng con dấu ngôi sao đỏ thì cứ xếp vào đồ ngụy, là ăn chắc!".

Thật ra, khi dán cái nhãn "ngụy" lên miền Nam, "Đảng và Nhà Nước" muốn nhân dân "chủ yếu là nhân dân miền Bắc" hiểu theo định nghĩa "ngụy" là giả, "giả nhân giả nghĩa, giả đạo đức, giả yêu nước thương dân, "ngụy" là đoạt của người ta mà nói là của mình, là bịp, là láo, là phiến loạn...
Về sau, khi nhân dân cả hai miền đều... mở mắt, tiếng "ngụy" ít thấy dùng tới. Nhưng bây giờ thì mọi người đều nhận ra ai mới đúng là ngụy. Lớp ngụy trang bị rơi xuống, những ngụy ngôn bị vạch trần, thì chân tướng ngụy lòi ra rõ rệt, đến người mù cũng phải thấy!

Viết dài dòng để... "đả thông tư tưởng" trước khi vào chuyện.
   
Ông H là thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ông làm việc ở Tổng Tham Mưu.
   
Ông thuộc gia đình trung lưu. Hồi 1945, cha và anh của ông đi kháng chiến rồi đi luôn ra Bắc. Từ đó, không được tin tức gì hết.
   
Mẹ của ông là giáo viên tiểu học, xem việc dạy dỗ trẻ con là một thiên chức. Bà thường nhắc về người cha và người anh vắng mặt, nhứt là người anh với những kỷ niệm đẹp của thời mà hai anh em còn ở chung với nhau: "Anh Hai của con thương con lắm. Đi học về là cởi trần rồi cõng con chạy cà bồng cà bồng quanh sân vừa chạy vừa hí rân như ngựa làm cho con cười hắc hắc. Mà con thì hay nhõng nhẽo với anh Hai con, đi đâu cũng bắt nó cõng hết. Còn khi nào con đòi cái gì không được, con hay vừa khóc vừa la để ba tưởng là anh Hai chọc con, ba rầy ảnh! Tội nghiệp! Những lúc thấy con sắp sửa làm trận như vậy, anh Hai con thường đưa đầu biểu con đánh nó đi chớ đừng khóc la, sợ ba rầy!". Rồi bà kết luận: "Tánh tình nó tốt lắm!".
   
Ông lớn lên trong vòng tay người mẹ, được giáo dục bằng tình thương, xem gia đình là căn bản, lấy đạo đức làm phương châm. Và ông giữ mãi trong lòng sự mến mộ "người anh Hai lúc nào cũng làm vui lòng em, lo lắng cho em, bảo vệ em".
   
Mãi đến năm 1973, mới được tin qua một người bà con rằng cha mất đã lâu và người anh bây giờ là tướng của "ngoài đó". Thật là bàng hoàng. Mẹ ông khóc hết nước mắt. Thời gian sau, bà nói: "Mẹ chỉ mong cho mau hết giặc, để anh em con về sống bên mẹ yên vui như ngày xưa. Chừng đó, mẹ mãn nguyện để theo ông theo bà...".
   
Mẹ ông qua đời vào giữa năm 1974, chưa kịp thấy cảnh "hết giặc" ra làm sao và chưa kịp gặp đứa con làm tướng...
   
Mấy hôm sau ngày 30 tháng tư 1975, ông tướng nhờ người bà con đưa lại nhà ông H. Xa cách đã ba mươi năm, nhưng hai anh em vẫn nhìn ra được nhau. Bởi vì họ giống nhau như đúc. Sau mấy giây ngỡ ngàng, họ xà vào ôm lấy nhau siết chặt. Cả hai đều không cầm được nước mắt. Bà H và bốn đứa con "ba trai một gái, đã lớn hết, hai đứa đại học và hai đứa trung học cấp hai" đứng nhìn cảnh hai anh em ôm nhau, cũng bồi hồi xúc động...
   
Sau đó là bữa cơm gia đình để hai anh em kể cho nhau nghe những biến thiên của đời mình, của thời cuộc. Tiếp theo là ông tướng mang hành trang lại ở với gia đình ông H, để có anh có em.
   
Ông bà H có hai cái nhà. Cái mà ông bà đang ở với hai con học trung học, là loại vi-la lầu có sân lót gạch và vườn cây kiểng hồ cá trang trí theo kiểu Nhựt. Nhà này do ông bà tự cất lấy hồi thời các con còn nhỏ. Về sau, ông được thuyên chuyển ra miền Trung một thời gian. Ông đem hết gia đình ra ngoài đó, để nhà cho Mỹ mướn. Nhờ vậy, mấy năm sau, ông mua thêm một căn phố nhỏ cho hai đứa con trai lớn ở, khi chúng nó vừa vào đại học.
   
Sau khi đi xem nhà, ông anh bảo:
   
- To thế thì ở làm gì cho hết? (Bây giờ ông anh nói pha giọng Bắc rất nhiều). Nguyên cái buồng ngủ thôi cũng chứa cả môt hộ bốn năm người đấy!
   
Hôm sau, ông H được người anh khuyên:
   
- Chú làm cái vườn như thế này là phí đất. Đào lên đi để trồng trọt khoai bắp cho các cháu có mà ăn. Phải biết tăng gia chứ!
   
Mới đầu, ông hơi phật ý. Nhưng, khi nhìn sang hàng xóm thấy nhà nào cũng đào cũng xới kể cả dải đất hẹp té nằm dọc theo chân tường rào phía ngoài đường, ông nghĩ: "Mình cũng phải làm như thiên hạ, cho yên thân".
   
Vậy là cha con ông hè hụi đập nạy cạy khượi, gạch, bê-tông, hồ cá... cho lòi đất rồi trỉa đậu trồng mì! Khu vườn Nhụt Bổn mà ông Bà H đã tự tay xây đắp, bây giờ tan hoang lồi lõm giống như bãi đổ... xà bần. Nhà ông H bây giờ mới thật sự mang nét cách mạng!
   
Ông anh "tên R" làm việc ở đâu, hỏi không bao giờ nói. Chỉ thấy mỗi sáng có xe của cơ quan đến rước, chiều đưa về. Ông H, sau khi khai lý lịch ở tòa đô chánh, tối ngày ngồi nghe tin tức qua ra-đi-ô. Bà H không dám nấu nướng trong bếp bằng lò ga. Bà sợ làm như vậy nó... ngụy quá đi, nên bà dựng ở hàng ba mấy cục gạch rồi nấu bằng than củi bằng lá khô... Bà kê cạnh đó một cái bàn thấp để chén đũa mắm muối, còn nồi niêu dao thớt thì cứ bỏ nằm lỏng chỏng dưới đất bên cái thau nhôm lớn đựng nước để dùng cho việc nấu nướng rửa ráy. Nước lấy từ ống cao su trước đây dùng tưới vườn. Nước dơ thì cứ tạt... cha nó ra sân. Bà H ngồi chồm hổm làm bếp, chổng khu thổi lửa khói bay um tùm làm đôi khi bà nhớ thời thơ ấu – bốn mươi mấy năm về trước – hồi ở dưới quê với bà ngoại, bà hay nhìn bà ngoại nấu cơm như bà làm bây giờ. Chỉ khác là hồi đó chưa có cách mạng! Ông anh có vẻ hài lòng về tác phong của bà H, nên khen: "Cô thật là sớm giác ngộ!".
   
Một hôm, đài phát thanh gọi các sĩ quan ngụy đi trình diện học tập. Và nói rõ: "Đem theo tiền ăn cho một tháng". Ông H lo lắng, hỏi ý kiến ông anh thì được trả lời:
   
- Chú cứ yên tâm đi học tập. Anh bảo đảm không sao hết.
   
Vậy là ông H hun vợ con, xách ba-lô lên đường, còn dặn:
   
- Ở nhà có bác Hai. Mẹ con bây cần gì thì nhờ bác, nghen.
   
Một tháng sau, không thấy ông về, bà H hỏi ông anh thì được trấn an một cách rất bình thản:
   
- Cô yên tâm. Vài hôm là về thôi!
   
Cứ thế, vài hôm rồi vài hôm... dài dài... Bà H nóng lòng, chạy đi gặp mấy bà bạn cũng là vợ sĩ quan, mới hay rằng có thể chồng đã bị chở đi luôn ra ngoài Bắc. Bà lau nước mắt, về quây quần với mấy con, ngồi đợi ông anh. Gặp ông, bà mếu máo:
   
- Họ chở nhà tôi đi mất rồi...
   
- Đi đâu mà mất? Còn tập trung cải tạo ở trong Nam chứ phải biệt xứ đâu mà mất? Đi học tập chứ đi tù đâu mà cô sợ.
   
- Nghe đồn trong trại khổ lắm. Nhờ anh can thiệp cho nhà tôi về. Dù gì anh cũng là tướng và cha đã hy sinh vì cách mạng.
   
- Cách mạng không phải như ngụy đâu cô! Không có chuyện móc ngoặc bè phái. Không có chuyện tư vị nể nang. Luôn luôn xử sự có tình có lý. Chú ấy cứ học tập tốt là về ngay thôi! Nói thế chứ... để tôi xem có làm gì được không.
   
Một hôm, ông anh họp các con ông H lại, khuyên:
   
- Ba các cháu là ngụy. Cách mạng khoan hồng gởi đi học tập cải tạo. Ba các cháu có sớm được trả về hay không là còn tùy thuộc ở thái độ học tập của ba các cháu. Và cũng tùy thuộc ở trình độ giác ngộ cách mạng của má các cháu và các cháu nữa.
   
- Vậy, mình phải làm sao?
   
- Dễ thôi! Bác sẽ giới thiệu các cháu vào đội thanh niên xung phong, nếu các cháu muốn giúp ba các cháu.
   
- Vô đó để làm cái gì, thưa bác?
   
- Để phục vụ nhân dân theo khả năng của mình. Nếu các cháu có tinh thần phục vụ cao, Nhà Nước sẽ cho điểm tốt trong việc cứu xét trường hợp của ba các cháu.
   
Sau một lúc bàn tính, cả bọn bốn đứa đều đồng ý... xung phong.
   
Bốn đứa được thâu nhận nhưng không cùng ở chung một đơn vị. Phân tán chúng nó ra, cô lập từng đứa một, để dễ theo dõi kiểm soát, tránh mầm móng phản loạn... Nhà Nước đi một nước cờ thật cao!
   
Chúng nó được đưa đi đào đất đắp nền ở các vùng kinh tế mới hay đi đào kinh làm thủy lợi. Lâu lâu mới về thăm nhà một vài hôm. Nhưng không bao giờ cùng về một lúc. Và đứa nào về cũng xác xơ hốc hác, tay chân ghẻ lở giống như bị đi đày! Đứa con gái trước đây học năm thứ bảy dương cầm ở quốc gia âm nhạc, bây giờ tay cứng còng, không đánh nổi một bài tầm thường của hồi đó. Bà H nhìn các con mà đứt ruột. Cho nên mỗi lần đứa nào về, bà cũng chạy lo thuốc men và nấu nướng cho ăn uống tẩm bổ. Chỉ có ông anh là hài lòng và cho rằng đó là thành quả tốt đẹp của lao động!
   
Một hôm, ông anh bảo người em dâu:
   
- Bây giờ các cháu đã có Nhà Nước lo. Cô giữ làm gì đến hai cái nhà? Đây là lúc mà cô phải chứng tỏ trình độ giác ngộ cách mạng của mình bằng cách hiến cái nhà này cho Nhà Nước để làm cơ quan phục vụ nhân dân. Như vậy, chú ấy có cơ được về sớm.
   
Sau vài phút suy nghĩ, bà H chỉ bằng lòng cho Nhà Nước mượn thôi.
   
- Ừ! Thì cho mượn cũng được, tôi nghĩ thế. Để tôi liên hệ với các đồng chí ấy xem sao.
   
Vậy là tuần lễ sau, bà dọn về căn phố nhỏ ở cách đó độ mười lăm phút xe đạp, nhưng thuộc về một quận khác. Sự chuyển hộ (nghĩa là dời chỗ ở, địa chỉ) không gặp khó khăn, nhờ ông anh cách mạng (Trong thời này, muốn chuyển hộ phải làm đơn xin phép nơi mình sắp dọn đến. Phải "có lý do chánh đáng" và điều này phải được chứng nhận bởi chánh quyền nơi mình đang ở!
   
Khi đã được chấp thuận (có ký tên đóng dấu) đương sự phải vác đơn đó về trình cho chánh quyền nơi đang ở để... xin phép được di chuyển. Khi được chấp thuận - ký tên đóng dấu- mình mới được quyền dọn đi!
   
Rắc rối như vậy nên lúc nào cũng có một sự giải thích rất "có trình độ": "Đằng kia có cho anh vô thì ở đây tôi mới cho anh ra. Chớ tôi cho anh ra mà đằng kia không cho anh vô thì anh... đi đâu?".
   
Rõ như vậy, nhưng nhiều khi vác đơn đến "đằng kia" trước, thì bị từ chối và dĩ nhiên được giải thích cũng rất "có trình độ" không kém: "Anh phải xin phép nơi anh đang ở trước rồi mới đến đây sau. Anh có được cho đi thì tôi mới nhận cho anh đến. Chớ bảo tôi nhận cho anh đến, trong lúc anh chưa được cho đi thì làm sao được? Phải có đi rồi mới có đến chớ! Dễ hiểu thôi!".
   
Cứ lẩn quẩn loanh quanh như vậy nên việc chuyển hộ thật là khó khăn.
   
Trong trường hợp chuyển từ tỉnh sang tỉnh hay từ vùng sang vùng thì khỏi nói, thật là "trần ai gian khổ"!).
   
Ông tướng có "động viên" một số đồng chí trẻ trong cơ quan đến phụ dọn nhà cho bà H. Và có cho mượn một chiếc xe cam-nhông-nét (cũng của cơ quan) nên việc dọn nhà cũng nhanh. Sau đó, ông anh cho bà ký tên tờ ủy quyền để ông anh thay mặt bà quản lý cái nhà lớn mà ông đang ở. Bởi vì bây giờ, bà đã chuyển hộ thì mặc nhiên ông anh trở thành chủ hộ ở ngôi nhà đó, mà muốn sử dụng cái nhà thì phải có sự ủy quyền của chủ nhà.
   
Mười lăm ngày sau, bà H được biết là nguyên cả tầng trệt nhà của bà đã trở thành "tổ gạo", còn ông anh thì vẫn ở một mình trên lầu. Nghe nói bà tướng có vào thăm chồng một lần, ở độ mười lăm hôm rồi trở về Hà Nội. Không hiểu sao ông tướng không có đưa bà vợ lại thăm cô em dâu. Cách mạng có khác!
   
Bẵng đi một thời gian dài gần cả năm, một hôm ông anh ghé nhà thăm bà H để báo tin đã tìm ra trại cải tạo của người em ở ngoài Bắc và chỉ vẽ cho bà cách thức xin đi thăm nuôi, đường đi nước bước, xe cộ vv... và nhứt là những thứ cần thiết như lương khô quần áo. Nghe như vậy, bà H đã đoán ra phần nào đời sống của chồng ở ngoài đó, nên bà rớt nước mắt hỏi:
   
- Sao trước đây anh không nói rõ để tôi lo cho nhà tôi có đầy đủ phải hơn không?
   
- Chuyện Nhà Nước, đâu nói ra được. Cô phải hiểu như thế chứ!
   
- Cái gì cũng che đậy. Cái gì cũng giấu diếm. Nhưng lần hồi thiên hạ đều biết hết. Bộ anh tưởng thiên hạ đui sao?
   
Đến đây bỗng nghe tiếng bà hàng xóm la lớn: "Đi đâu đó nữa? Mấy bữa nay tao nói mầy kê lại dùm mấy ông Táo kẻo mấy ổng sụm xuống thì không còn khỉ gì để nấu nướng... mà mầy cứ ăn rồi là xách đít đi hà!".
   
Giọng người con trai: "Bộ má tưởng con đi chơi hả?".
   
Giọng bà hàng xóm: "Chớ đi đâu mà ngày nào cũng đi, mầy nói tao nghe coi!". Giọng người con, có vẻ hảnh diện, nói rời ra từng tiếng: "Con-đi-phục-vụ-nhân-dân!".
   
Giọng bà hàng xóm, tức tối: "Phục vụ nhân dân! Phục vụ nhân dân! Con gái mẹ mầy cũng là nhân dân đây nè! Mầy phục vụ cho nó đi! Kẻo không chổi chà nó đơm lên đầu bây giờ!".
   
Ngừng một lúc, lại nói: "Cha... Lúc này nói giọng cách mạng quá há! Phải mà! Con mẹ buôn gánh bán bưng này hăm mấy năm nay nó kềm kẹp mầy quá mà! Nó nhét cho mầy ăn để mầy lớn! Nó ép mầy học để mầy khôn! Nó ác ôn quá phải hông? Nó ngụy quá phải hông? Nó giả nhơn giả nghĩa quá phải hông?"
   
Nghe đến đây, ông tướng nhăn mặt:
   
- Ăn với nói! Rõ là không có trình độ!
   
Rồi ông đứng lên:
   
- Tôi phải vào cơ quan. Bao giờ cô được phép đi thăm nuôi, gặp chú ấy nhớ bảo tôi nhắn chú ấy luôn vững tin vào sự sáng suốt của Đảng và Nhà Nước. Ta khác ngụy ở chỗ xử sự có tình có lý và lúc nào cũng khoan hồng đối với những người biết quay về với nhân dân.
   
Bà H làm thinh, nhưng nhìn người anh chồng chỉ có nửa con mắt!
   
Lúc đó, nghe tiếng thằng con trai nhà hàng xóm: "Rồi đó! Con kê lại mấy ông Táo rồi đó!". Giọng bà mẹ, vẫn còn hậm hực: "Dữ hôn! Có bao nhiêu đó mà cũng phải đợi tao nhắc năm lần bảy lượt! Thôi! Mầy đi phục vụ nhân dân của mầy, đi. Chiều, vác mỏ về, con mẹ ngụy này nó nấu cơm cho mà ăn".
   
Từ ngày dọn về đây, bà H đi làm ở tổ hợp may thêu gần đó. Cũng phải đi làm như thiên hạ để đừng bị để ý theo dõi, chớ thật ra bà chưa đến nỗi túng thiếu nhờ đã cất giữ nữ trang trong nhà thay vì gởi ở ngân hàng. Bây giờ, lâu lâu bà bán một vài chỉ...
   
Bà hàng xóm (tên là bà Năm) có cái sạp cháo lòng ở đầu ngõ. Sáng nào, bà cũng đi bộ theo thằng con trai đạp xe ba bánh chở thùng tô dĩa muỗng đũa, thùng lòng dồi gia vị, nồi cháo lớn bằng nhôm, lò dầu hôi và mấy can nhựa đựng nước rửa chén... ra cây trứng cá nằm trên lề đường Phan Đăng Lưu (tức là đường Chi Lăng hồi trước).
   
Ở đây, có cái sạp gỗ dựng đứng và bốn năm cái ghế gỗ nhỏ được... xiềng vào gốc cây trứng cá. Hai mẹ con mở ống khóa, hạ cái sạp rồi kê ngay ngắn dưới tàn cây. Xong, thằng con về nhà lấy xe đạp, đạp đi "phục vụ nhân dân" cho tới tối. Thành ra, đến trưa khi bán hết nồi cháo - bà chỉ bán có buổi sáng - bà thâu xếp dọn dẹp một mình ên, rồi đẩy xe ba bánh chở đồ nghề về nhà (Bà không đạp vì không biết đi xe đạp!).
   
Cứ vài bữa, bà lại mang biếu bà H một tô cháo lòng. Bà biết bà H là vợ thiếu tá quốc gia và chồng đi học tập nên bà hay tới lui thăm viếng để an ủi. Bà H thật cảm động. Có hôm bà nhắc chừng:
   
- Bà Năm cẩn thận. Có thể tụi nó theo dõi.
   
- Ối... Cái lũ cô hồn đó tôi đâu có sợ, cô Hai. Hồi tụi nó mới vô, bắt mình làm tờ "báo công báo tội". Tôi phát ghét nên khai là tôi tội lỗi đầy đầu bởi vì gần hai chục năm nay tôi bán cháo lòng cho ngụy ăn chớ không cho cách mạng ăn! Vậy mà có thấy thằng nào đụng tới tôi đâu, cô Hai!
   
- Coi vậy chớ cũng nên coi chừng, bà Năm à! Nhứt là khi bà rầy la thằng nhỏ, nói đụng chạm tới họ quá, không nên.
   
- Tụi nó đã coi mình là ngụy thì cứ thí mạng cùi chửi cho sướng miệng. Tội vạ gì mà nín thinh? Há?
   
Nói xong, bà Năm nhếch mép cười, làm như bà đang thách đố cách mạng vậy!
   
Khi bà H được giấy phép đi thăm nuôi chồng, bà báo tin cho bà Năm và nhờ bà Năm coi chừng nhà giùm. Bà Năm mừng rỡ, làm như ông H là người nhà:
   
- Dữ hôn! Tới bây giờ mới cho con người ta đi thăm nuôi. Quân ác ôn! Được rồi, cô Hai cứ yên tâm, tôi giữ nhà cho. Mà chừng nào cô Hai định đi?
   
- Chắc mười hôm nữa, bà Năm à. Để có thì giờ lo cho đầy đủ. Chớ gấp rút quá thì quên trước quên sau...
   
- Cô Hai nói phải đó. Đi ra tới ngoài Bắc chớ bộ gần gụi gì hay sao?
   
Ngừng một chút, bà Năm cầm tay bà H lắc nhẹ:
   
- Cần gì thì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà...
   
Bà H xúc động, lí-nhí "cám ơn" mà nước mắt chảy quanh.
   
Lạ quá! Chỉ có mấy tiếng "mình với nhau" mà sao nghe ấm cúng vô cùng. Nhứt là trong hoàn cảnh này, trong giai đoạn này. "Mình với nhau" là sự nhận diện của những người cùng đứng về một phía. "Mình với nhau" nói lên sự cảm thông của những người cùng cảnh ngộ, cần nương tựa vào nhau, nâng đỡ nhau để sinh tồn. "Mình với nhau" là tình người không dị biệt giai cấp. Cho nên, khi mở rộng vòng tay, bà Năm cháo lòng chỉ cần nói có mấy tiếng đó thôi là quá đầy, quá đủ...
   
Hai hôm trước ngày bà H khăn gói đi thăm chồng, bà Năm qua nhà đưa một lon ghi-gô được ràng chằng chịt bằng dây thun:
   
- Cô Hai cho tôi gởi ổng lon thịt chà bông. Tôi làm có hơi mặn để ăn cho lâu. Tôi ém chặt và ràng kỹ, cô Hai đừng lo đường xa nó sút sổ. Cô cho tôi gởi lời thăm ổng, nghen.
   
Bà H "cám ơn"mà có cảm tưởng như bà Năm là người trong quyến thuộc!
   
Trong khi đi ra cửa, bà Năm còn quay lại nói:
   
- Cô Hai đi yên tâm. Tụi nhỏ của cô có về chơi thì tôi lo cơm nước cho hết. Cô nhớ viết ít chữ để lại cho tụi nó biết, nghen!
   
Bà H gật gật đầu, nhìn theo mà thấy bà bán cháo lòng đó còn cao cả gấp mấy mươi lần người anh chồng làm tướng của cách mạng!
   
Đi thăm chồng về, bà H như già đi năm bảy tuổi. Mắt bà sưng húp, tóc tai rối bời, mặt mũi hốc hác. Bà Năm nhìn bà H, động lòng chảy nước mắt. Ngồi xuống bên bà H, bà Năm hỏi:
   
- Sao, cô Hai? Khổ lắm phải không?
   
Bà H mếu máo khóc, chỉ gật gật đầu chớ không nói được một lời. Bà Năm nhích lại gần, choàng tay ôm vai bà H, chửi đổng:
   
- Mẹ bà nó! Quân ác ôn!
   
Bà H bỗng quay sang ôm chầm lấy bà Năm, khóc nức nở. Vừa khóc vừa cố gắng nói, câu nói đứt ra từng khúc:
   
- Ảnh... ốm... đến nỗi... tôi... nhìn... ảnh... không ra...
   
Đến đây, bà Năm cảm động nghẹn lời. Bà chỉ còn biết vuốt vuốt lưng bà H, giống như bà đang dỗ về người em gái.
   
Hôm sau, bà H đội nón lá cầm cái thơ ông H viết cho người anh để gởi gắm vợ con, đi bộ về cái vi-la của bà ở quận kế bên. Bà cố tình đi bộ, vì bà nghĩ đến chồng. Đối với những gian khổ cùng cực mà chồng bà đã chịu đựng từ bao nhiêu năm nay - theo lời kể lại của ông H - thì sự đi bộ của bà không thấm thía vào đâu hết. Nhưng, khi bà đi bộ, bà tưởng chừng như bà đang chia xẻ một phần nào những khổ dịch của chồng, người tù cải tạo.
   
Vi-la của bà, bây giờ thấy khác trước. Tường rào đã xây lên cao. Cổng song sắt được gắn thêm lưới sắt ô vuông. Nhìn vào trong không còn tổ gạo, mà sân thì đã được tráng xi-măng lót gạch khía sạch sẽ.
   
Thấy có bóng người, bà H bấm chuông. Có giọng đàn bà hỏi vọng ra, giọng Bắc:
   
- Ai đấy?
   
- Dạ... tôi.
   
Một bà cỡ tuổi bà H bước ra hất hàm:
   
- Chị muốn gì?
   
- Thưa... Tôi muốn tìm ông R. Nhà tôi có viết cho ổng cái thơ...
   
- Đồng chí R à? Đồng chí ấy đã phục viên lâu rồi. Đồng chí bán nhà cho chúng tôi, xong, dọn hết về thủ đô. Thế... chị là gì của đồng chí ấy?
   
Bà H choáng váng mày mặt, chỉ còn kịp tỳ người vào trụ cổng để khỏi quị xuống. Tuy nhiên, bà vẫn nghe tiếng mình nói:
   
- Dạ... Tôi... À... Không!
   
Rồi câm luôn. Thấy bên ngoài làm thinh, bà người Bắc bỏ đi vào trong, nhưng vẫn nói vói ra:
   
- Đồng chí R hiện ở đâu, tôi cũng không biết. Thôi, chị về đi!
   
Phải một lúc lâu sau, bà H mới hoàn hồn. Bà đứng thẳng nhìn vào trong. Bà bỗng thấy bà đã biến thành một người khác. Một người cứng rắn hơn, lì lợm hơn. Một người sẽ dám nhìn thẳng vào mặt kẻ địch mà chửi như bà Năm cháo lòng. Ví dụ có người anh chồng đứng trước mặt bây giờ, bà sẽ xáng cho anh ta một bạt tai – điều mà trước đây bà chẳng bao giờ dám làm dám nghĩ!
   
Bà H vẫn đứng thẳng, nhìn vào trong. Mắt mở to, ráo hoảnh. Môi mím chặt. Tay bà vò nát cái thơ của chồng viết. Bà vò nó mà bà không hay! Bà chỉ cảm thấy một sự căm thù đang dâng lên làm bà trạo trực. Bà nghe buồn nôn!
   
Phải rồi! Bà muốn nôn mửa lên những giả dối gian manh mà bọn chúng nó thằng nào cũng có sẵn trong đầu. Bà muốn nôn mửa lên những lời lẽ giả nhân giả nghĩa mà bọn chúng nó thằng nào cũng có sẵn trên đầu môi chót lưỡi.
   
Bà muốn nôn mửa lên những thủ đoạn xảo quyệt được ngụy trang bởi những chiêu bài yêu nước thương dân, có nghĩa có tình... mà bọn chúng nó thằng nào cũng sẵn sàng hành động. Bà muốn... Bà muốn...
   
Bà H liệng cái thơ nhàu nát xuống đất, phun nước miếng nghe cái phụt một cách khinh bỉ, rồi cúi lượm cái nón lá bỏ rơi khi nãy đội lên đầu, đi thẳng. 


Mấy năm sau, ông H vẫn "còn được cải tạo", bà H lâu lâu vẫn lặn lội đi thăm nuôi chồng, hai thằng con lớn vượt biên rồi định cư ở Úc, đứa con gái lấy chồng đánh cá ở Minh Hải, thằng con út cặp với con bạn cùng xóm mở quán cà phê vỉa hè cạnh hàng cháo của bà Năm. Còn bà Năm vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi Nhà Nước!... (*)


(*)     " Bọn ta đầu có thể chặt, nhưng tóc không thể cắt, da có thể lột, nhưng áo không thể đổi! " --  Lê Quýnh  (1750-1805)

Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014

TRÀ - THIỀN - NHÂN GIAN CÕI TỊNH ---Thích Tâm Mãn



Không biết từ bao giờ hình ảnh của Trà đã in đậm vào cõi nhân gian, hương vị của Trà đã thấm sâu vào trong cuộc sống thường nhật, vị chát rồi ngọt của Trà đã thấm đậm vào tâm thức của bao lớp người trong kiếp nhân sinh. Rồi Trà như cam lộ nhuận thắm cửa thiền sâu lắng, gợi lên khúc đại từ sắc sắc không không.



Trà thường có vị đắng, chát, rồi sau đó lẫn vào một chút ngọt ngào, cũng như cuộc đời ai cũng phải trãi qua bao đắng cay chua chát, nhưng nếu vẫn bền gan vững chí, thì cuối cùng rồi cũng gặt hái được những thành quả ngọt ngào của câu chữ "Khổ tận cam lai" còn nếu như không có một chút gì hồi đáp, thì âu cũng là "duyên số" mà thôi.
 
Hương vị của Trà hàm chứa đầy đủ các chất liệu hương vị của cuộc đời, cho nên thường thì khi còn niên thiếu rất ít có ai thích uống trà, vì vị của Trà không ngọt ngào như tương lai và mơ ước của những người trẻ tuổi, nhưng khi trãi qua hết thảy mọi xúc cảm thăng trầm vinh nhục, được mất có không của cuộc đời, đến tuổi xế chiều, ngồi thưởng thức một chén trà lại là cơ hội để bạn già ôn lại chuyện xưa, để người đi xa nhắc về những kỷ niệm, để bao cuộc đời bể dâu, thăng trầm trôi nổi nói lại duyên xưa.
 
 
Khách phong trần nhìn lại cuộc đời của mình, để rồi ăn năng hay tỉnh thức, hoặc giả tự mình vui với chính sự thành công của mình, hay tự an ủi mình trong những gì không được may mắn hay thất bại, người trong nhân gian thấm sâu vị đắng chát hay ngọt ngào của trà là như vậy đó, thưởng thức trà, hương trà trong được mất của thế nhân.
 
 
Trà pha với nước như người với cuộc đời, khi thả trà vào nước lá trà lúc nào cũng trôi nổi bềnh bồng, chẳng khác gì ta khi bước vào đường đời nổi trôi chưa có nơi cố định, hoặc giả công việc thời thế chưa đến lúc hanh thông. Rồi màu của trà vị của trà, dần dần đậm lại, như màu sắc cuộc đời trãi qua những thăng trầm thêm kinh nghiệm sống trong ta, vị trà đắng rồi lại ngọt, mách bảo cho ta hương vị của cuộc đời không bao giờ đắng mãi và cũng không có ngọt bùi khi không có sự nổ lực của chính tự thân.
 
 
Trà khi pha nổi rồi chìm, đắng chát ngọt ngào không khác cuộc đời được mất hơn thua, vinh nhục, cay đắng, trà vẫn thế không thay hương vị, đời vẫn vậy chưa từng đổi thay, trà vị có chát hay ngọt cũng chỉ có người thưởng thức mới biết được, đời vui hay buồn, vinh hay nhục cũng chỉ có người trãi qua rồi mới cảm nhận được thôi.
 
 
Trà được xưng là Trà Đạo vì theo quan niệm của cổ nhân trong trà có ba điều đạo lý.
Điều thứ nhất: trà có vị đắng cay như cuộc đời.
Điều thứ hai: hương của trà thơm như ái tình của cuộc sống.
Điều thứ ba: đắng rồi lại ngọt, như cuộc khổ lại cam qua, trong trà gói trọn bao nhiêu triết lý của cuộc đời, biểu hiện hết thảy ngọn ngành cảnh giới của nhân sanh.
 
 
Cuộc đời chẳng khác gì trà khi trãi qua ba giai đoạn, nếu được rèn dũa tôi luyện thì phần còn lại đó là trà sẽ là vị ngọt, còn cuộc đời sẽ là sự thành công hay trọn đầy bao ước nguyện.
 
Trà được người kính trọng bởi vì trà có đầy đủ những gì người muốn có, theo kinh nghiệm của người xưa uống trà có thể huân tập được 10 đức tính như; tán u uất, dưỡng sinh, dưỡng khí, trừ bịnh, lễ giáo, biểu kính, thưởng vị, dưỡng thân, hành đạo, nhã chí. Vì vậy trà được đưa vào Thiền môn vì những tính chất đặc hữu của mình, trãi qua sự vận dụng của Thiền định trong trà, đạo của trà thâm nhập vào thế giới của Thiền tư thành Thiền Trà.
 
Trà vào cửa Thiền với tự thân vốn không có sự phân biệt quý hay tiện, cho nên khi thể nhập vào đạo Thiền đệ nhất nghĩa với "Phật tánh bình đẳng không nam bắc". Khi thưởng thức trà tâm phải tịnh để cảm nhận được hương vị của trà, ý niệm sống trong hiện tại của thiền lắng đọng trong từng làn hương thoảng của trà. Nếu ngộ được niệm tịnh trong trà, tinh thần của trà, ý chân của trà, thì người uống trà cùng Thiền sư trong một cảnh giới, không còn niệm nào sai khác "Bổn lai vô nhất vật" thì còn việc gì "hà xứ nhạ trần ai".
 
 
Nói đến trà ta liền chợt nghĩ đến hình ảnh của cuộc sống thường ngày, việc uống chén trà dường như đã quen thuộc lắm, dùng ý niệm của nhị đế để hiểu trà thì trà thuộc về tục đế, thế giới trần gian, còn thiền thì lại không có lời thắc mắc là tục hay chân, là trần hay cảnh, chỉ có một niệm hiện tiền, uống trà và cũng chưa bao giờ nhớ hay quên, bởi vì Trà chưa từng rời bỏ Thiền một bước vì "Trà tức là lìa ngôn từ, hết chư tướng, ly tứ cú, tuyệt thị phi", nên trà chỉ còn lại nguyên ý là đệ nhất nghĩa đế mà thôi.
 
 
Người thế gian uống trà trong niệm "nhàn hạ thanh cao", kẻ học Phật uống trà trong liễu ngộ pháp "đệ nhất nghĩa đế ". Chấp có chấp không, hay tất cả đều không hay có, rồi chẳng có Thiền cũng không có cảnh trần gian, nếu như vậy, thì pháp giải thoát không còn cách nào để tự mình chứng ngộ, và cảnh của cuộc đời không có gì để nhàn hạ thanh cao.
 
 
Người uống trà trong tâm niệm tục đế, thì trong trà không có phẩm chất của thiền tư, nhưng nếu lại nhất niệm hướng trà về với chân đế, thì trà thật là vô vị, không còn ngọt ngào hương vị của nhân gian. Trà và Thiền phải là một vị, như câu "Nhị đế dung thông" trà thế gian hay trà thiền cảnh thì cũng viên tròn trong ý "Chân tục không hai", nếu có thể dùng được tâm và ý này để thưởng thức trà, thì đây là người biết uống trà vậy.
 
 
Trà hiện "Bình thường tâm" là trà phổ biến khắp các thứ tầng của cuộc sống, cũng là thú vui tao nhã của cuộc đời, nhưng là mang theo trong đó một ý niệm dung nhập vào cảnh Thiền, từ tục đạt đến chân, từ sắc đến vô sắc, thưởng thức trà như vậy thật là đang tu tập thiền định và đang hành trì một trong vô lượng pháp môn tu vậy. Cho nên Lục Tổ Huệ Năng nói: "Phật Pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác, lìa thế gian để tìm đến Bồ đề, cũng không khác đi tìm sừng của con thỏ vậy.".
 
 
Thiền sư đem trà cúng dường Phật, với tâm trọn thành trong niệm cúng dường cảm ân, lấy trà để mời khách là nguyện niệm lân mẫn cúng dường, hai pháp cúng dường, nhưng chỉ trong một niệm hoan hỷ, Phật hay chúng sanh cũng chỉ trong tâm tâm bình đẳng. Lấy trà để cúng dường, ý diễn trà cũng là sắc thân, dùng trà để bổ trợ cho sắc thân đầy đủ thắng duyên tu hành thành Phật. Trong bài Ẩm Trà Ca của Thầy Hiểu Nhiên đời Đường có câu: "uống trà một ngụm điều dứt hôn trầm, tinh thần sảng khoái mãn trần gian, uống thêm ngụm nữa tâm thanh ý tịnh thần tự tại, bổng thấy lòng mình mát rượi như hạt mưa bay, đang sái gội trần gian".
 
Trà Thiền chỉ trong chén trà mà ta đang thưởng thức, đây là một câu ngạn ngữ trong cửa Thiền khi nói đến đạo của Trà và Thiền. Thiền sư uống trà, trà trở thành "Thiền", thế nhân uống trà, trà trở thành "Lễ", lễ trong ý kính, Thiền trong trong niệm tịnh, kính và tịnh hợp nhất thành tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh rồi trần cảnh không hai, thế gian, cõi thiền là một, Thiền sư là khách, khách cũng là thiền, như trà chỉ một vị, khách thiền cảm nhận như nhau, không sai không khác, như vậy là "Trà Thiền một vị, Tăng Tục không hai".