khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015



Giới thiệu và góp ý về cuốn Mặt Trận Đại Học của Bạch Diện Thư sinh
(Tiếp theo phần II)
 
1970 Miền Nam VN – Sinh Viên học sinh biểu tình đòi hỏi Chính Quyền                                 phải tôn phải tôn trọng tự do nhân quyền theo Hiến Pháp. Nguồn: OntheNet
1970 Miền Nam VN – Sinh Viên học sinh biểu tình đòi hỏi Chính Quyền phải tôn phải tôn trọng Hiến Pháp. Nguồn: OntheNet

Trong tập tài liệu “Dòng họ gia đình, giấc mơ chưa đạt”(16), tác giả Nguyễn Văn Minh đã dành một phụ bản từ trang 448-492 để nói về những hoạt động của Dương Văn Hiếu. Danh sách những cán bộ cộng sản nằm vùng bị Dương Văn Hiếu bắt dài mấy trang. Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi Dương Văn Hiếu từng bắt người của Bộ Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, người của an ninh quân Đội của Đỗ Mậu, người của Mỹ làm cho USOM đến đại sứ Mỹ phải phản đối và 11 người làm việc trong Tổng Liên Đoàn lao công của Trần Quốc Bửu. Ông Bửu phản đối kêu lên ông Nhu. Ông Hiếu đề nghị cho 11 người này đối chất với ông Trần Quốc Bửu. Cả 11 người đều nhìn nhận là họ có hoạt động cho cộng sản.

Sau 1963, ông cùng với nhiều người khác ra tòa. Có một thẩm phán là thành viên, ông đại tá Dương Hiếu Nghĩa trước đây là thiếu tá thiết giáp có liên hệ với vụ giết ông Diệm, họ đã xử:
 
-Dương Văn Hiếu: Chung thân khổ sai
-Thái Đen: Chung thân khổ sai
-Nguyễn Thiện Dzai: chung thân khổ sai.
-Phan Khanh: 10 năm khổ sai.

Năm 1964, có ba chiếc máy bay DC3 ra Côn Sơn chở khoảng 30-40 người về Sài Gòn. Ông được phóng thích.
 
Sau đó, ông được Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo lúc ấy do tướng Nguyễn Khắc Bình chủ trì cho người đến mời về làm việc cho Phủ Đặc ủy. Ông yêu cầu trả nhà và bạch hóa hồ sơ. Ông Bình cho người mang 40 ngàn đồng để nói là giúp gia đình trong cơn túng bẫn.
 
Ông đến hỏi ý kiến Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình thì Giám mục Bình khuyên cứ đi làm cho yên thân.
 
Tại Phủ Đặc ủy, ông được cấp một văn phòng và một thư ký đánh máy, mỗi tháng đọc tài liệu rồi báo cáo. Đối với ông, đây là một hình thức giam lỏng.
 
Nếu người ta biết dùng ông như thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chức vụ ít nhất ông phải là phụ tá Đặc ủy trưởng thì những thứ như Trần Bạch Đằng có thể đã bị ông cho ngồi cũi rồi!
Tiếc thay, vô cùng tiếc thay!
 
Bản thân ông đã vậy, ông còn cảm thấy chua chát hơn khi những cán bộ cộng sản mà ông từng bắt giam thì sau cách mạng, họ được giải giao về Tổng Nha Công an và Cảnh sát và tại nơi đây, tướng Mai Hữu Xuân, tân Tổng Giám Đốc Cảnh sát Sài Gòn của chính quyền Dương Văn Minh đã trả tự do vào cho họ vào tháng sáu 1964.
 
Tất cả bọn Tình báo Khu 5, Tình báo Chiến lược, Cục 2 quân báo Trung Ương VC. Và ngay cả Mười Hương đều được thả. Cộng sản bắt người miền Nam đi học tập – dù chỉ là một nhân viên Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, chúng cũng giam đến 17 năm, trong thời bình.

Vậy mà ta thả tất cả. Thả như thế thì Dương Văn Minh là ai? Trong sách của Lý Quý Chung, “Hồi ký không tên” có đặt ra một câu hỏi ấm ớ là Dương Văn Minh là người Quốc Gia, người của Mỹ hay người của Cộng sản?

Trong câu hỏi ấm ớ của Lý Quý Chung đã có sẵn câu trả lời.
Vậy thì so với phía bên kia, ta thua chẳng những vì không biết dùng người. Mà thua vì còn có những kẻ đâm sau lưng chiến sĩ.

Đoàn công tác đặc biệt miền Trung

Ở miền Trung, ông Ngô Đình Cẩn có tổ chức một đám mật vụ riêng. Hoạt động rất có hiệu quả mà phạm vi hoạt động của ông bào trùm khắp miền Trung, có khi vào cả Sài Gòn.
Thật ra tên gọi chính thức là Đoàn công tác đặc biệt miền Trung mà nhiệm vụ chính yếu là thực hiện công tác chiêu hồi. Dưới mắt ông Cẩn thì những người cộng sản cũng có lý tưởng, có kinh nghiệm, có chịu đựng nhiều gian khổ, dám hy sinh, hiểu thấu quy luật hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Vậy nếu thuyết phục được họ về quy thuận quốc gia thì việc chống cộng sẽ có hiệu quả hơn nhiều.

Vì thế, năm 1957, Ông Cẩn đã đệ trình ông Diệm thành lập một cơ quan có tên là Chiêu mời và sử dụng những người kháng chiến cũ.

Kết quả là chính sách đã thu đạt được kết quả hết sức khích lệ. Dương Văn Hiếu, một nhân viên thuộc Nha Công An Cảnh sát Cao nguyên Trung phần được giao phó trọng trách này. Sau này, nói gọn, người ta gọi là “Đoàn công tác”. Dịp tết năm 1958, ông Cẩn chính thức đến gặp các anh em đã chuyển hướng, Ông nói,
 
Ông Ngô Đình Cẩn (Saigon 23/4/964)
Ông Ngô Đình Cẩn (Saigon 23/4/964)


“Bữa ni tôi tới anh em vì được biết rằng các anh em là người có thiện chí, có tinh thần quốc gia…Tôi đến với một mục đích chiêu mời anh em về với Quốc gia. Chúng ta cùng nhau xây dựng một chế độ thực sự tự do.

Tôi đến với anh em như một chiếc bánh, có bao nhiêu lớp lá bên ngoài, tôi đều bóc ra hết cho anh em thấy cái chất thật bên trong của chiếc bánh. Về phía anh em, tôi cũng yêu cầu anh em như rứa. Mình hãy, và phải thật thà với nhau. Mỗi anh em sẽ được giao phó nhiệm vụ, hưởng thụ quyền lợi đúng với khả năng của mình.

Anh em phải nhớ rằng, nhiệm vụ chính của Đoàn không phải là lùng sục để bắt bớ cán bộ cộng sản. Mà là phát hiện, phát giác, rồi chiêu mời các anh em ấy về hợp tác, cùng với mình xây dựng đất nước, cải tạo xã hội lạc hậu, bất công này…”

Đây có thể là bài diễn văn hay nhất và duy nhất trong cuộc đời ông Ngô Đình Cẩn đã đọc với tuyền ni, rứa, ni, rứa nhưng lại là bài diễn văn thu phục được lòng người nhất bằng những lời lẽ chơn chất.

Kết quả là Đoàn công tác với một số nhân viên ít ỏi đã quét sạch hệ thống hạ tầng cơ sở của cộng sản từ cấp xã lên đến quận, huyện tỉnh trong khắp miền Trung. Việc mà Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo với số nhân viên và ngân sách lớn gấp bội phần đã không làm được. Sau này, tôi không lấy làm ngạc nhiên khi bà Ngô Đình Thị Hiệp có nhận xét rằng ông Ngô Đình Cẩn thông minh nhất nhà, hơn cả ông Diệm, ông Nhu cộng lại.

Nhưng nếu mật vụ của Trần Kim Tuyến nặng về mặt chính trị thì ông Cẩn nặng về mặt an ninh và chiêu hồi.
 
Sau đây xin giới thiệu một số cơ quan, tổ chức mật vụ
 
1. Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo
 
Chiến lợi phẩm của tình báo Việt Cộng năm 1975. Nguồn: qdnd.vn
Chiến lợi phẩm của tình báo Việt Cộng năm 1975. Nguồn: qdnd.vn

Về mặt an ninh tình báo, trước 1963, Việt Nam Cộng hòa có nhiều tổ chức hoạt động khác nhau lắm. Có Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung của ông Dương Văn Hiếu, có sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội của Trần Kim Tuyến, có Lực lượng Đặc biệt của Lê Quang Tung và Nha An ninh Quân đội của Đỗ Mậu.. Tuy nhiên mỗi tổ chức hoạt động biệt lập và không dẫm chân lên nhau.

Nhưng lúc đó, Trần Kim Tuyến đã nghĩ đến chuyện gom tất cả các tổ chức trên thành một tổ chức duy nhất nằm trong một Bộ An Ninh trong đó có cảnh sát, tình báo chiến lược và phản gián quốc nội, quốc ngoại.

Tham vọng của Trần Kim Tuyến và kế sách tổ chức lại các cơ quan tình báo đã bị ông Diệm lờ đi.

Tổng thống Ngô Đình Diệm đã không đồng ý đề nghị đó vào năm 1960. Nhưng có phải vì thế, vào năm 1961, ông Diệm đã cho thành lập riêng Phủ Đặc ủy Trung Ương tình báo?

Thật ra cuốn sách “Mặt Trận Sài Gòn” đã cung cấp rất ít tư liệu về tổ chức của Phủ Đặc ủy Trung Ương tình báo cũng như những hoạt động có hiệu quả của tổ chức. Hầu như ta không thể hình dung ra một tổ chức tình báo với khoảng 500 nhân viên đủ loại mà hoạt động hầu như không có gì?

Đó là cảm tưởng của người đọc sách.

Phủ Đặc ủy hoạt động chưa được bao lâu thì chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ. Những người chỉ huy được thay thế liên tục tùy theo thời kỳ mà ưu thế dành cho sự tin tưởng vào một cá nhân và nhân vật được chọn trở thành công cụ cho người lãnh đạo hơn là lo cho nền an ninh quốc gia(17).

Tướng Nguyễn Khắc Bình và A17

Tướng Nguyễn Khắc Bình phải là người thế nào để có thể cùng một lúc nắm hai ngành an ninh quốc gia cùng một lúc? Đã thế cũng phải là người khôn ngoan khéo léo hết mực để cân bằng được hai thế lực: Một bên là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bên kia là Thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Có lẽ đó là cái khả năng mà tướng Bình có quyền tự hào về chính mình.

Con việc điều hành được hai ngành an ninh kể trên cho có hiệu quả thì là một chuyện khác.

Trong thời gian ông tại chức, bọn sinh viên thân cộng phá phách, gây rối loạn từng ngày từng giờ. Thành phố Sài Gòn trở thành một mặt trận giữa hàng rào kẽm gai, khói lựu đan cay một bên và biểu ngữ, xuống đường của sinh viên một bên.

Cứ khách quan nhìn bề ngoài thì rõ ràng công an cảnh sát không làm chủ được tình hình Sài Gòn, nếu không nói là ngoải khả năng kiểm soát an ninh của họ. Hàng rào kẽm gai chỉ có tác dụng gây khó cho khách bộ hành hơn là ngăn chặn được các cuộc biểu tình.
 
Nếu có khách du lịch đến Sài Gòn thì tôi nghĩ hình ảnh giây kẽm gai là hình ảnh không đẹp mắt tý nào. Nó cho người ta có cảm tưởng một thành phố mất an ninh, một thành phố mà sinh mạng một người có thể bị đe dọa bất cứ lúc nào.
 
Có lẽ thành tích sáng giá nhất của cảnh sát Sài Gòn là đưa được 16 tên sinh viên cộng sản ra tòa. Sáng ngày 5 tháng 3, 1970 cảnh sát tung lưới bắt Dương Văn Đầy. rồi Phùng Hữu Trân, Nguyễn Ngọc Phương, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Võ Thị Tố Nga. Ngày 10 tháng 3 đến lượt Huỳnh Tấn Mẫm, rồi Lê Thành Yến, Nguyễn Thành Công.
 
Huỳnh Tấn Mẫm (giữa) ra tòa ngày 20/4/1970. Nguồn:  baodanang.vn
Huỳnh Tấn Mẫm (giữa) ra tòa ngày 20/4/1970.
Nguồn: baodanang.vn

Có người cho rằng sau chuyến đi Đại Hàn đã đưa ông Thiệu đến quyết định thành lập cụm A17 và giao khoán trắng cho tướng Bình như thấy nước đã đến chân và quyết định thành lập A17 để đối phó với bọn Thành đoàn cộng sản.
 
Quyết định thành lập này đến từ TT Nguyễn Văn Thiệu và tướng Nguyễn Khắc Bình. A17 để chỉ thị 17 phân khoa đại học. Trụ sở Trung ương Tình báo đặt ở số 3 bên Bạch Đằng. Người trực tếp điều hành A17 là ông Nguyễn Thành Long, từ Nam Vang kéo về. Nghe nói ông là người nhà của ông bà Thiệu.
 
Ông Thiệu, ông Khiêm đều xử dụng người nhà, người mà họ tin tưởng vào những vị trí tốt nhất mà chúng tôi sẽ có dịp nói trong bài viết sắp tới. Việc thành lập thêm A17 vào cuối năm 1971 xem ra có quá trễ không? Giả dụ như nó được thành lập từ năm 1967-1968 xem ra thuận lợi hơn, vì cộng sản chưa cài đặt được người khắp nơi!
 
Chưa kể Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo từ trước đến nay mà mục tiêu hoạt động nhằm đối tượng nào? Người Mỹ hay cộng sản? Ông Thiệu sợ Mỹ hơn hay sợ cộng sản? Và bao nhiều tiềm năng hoạt động của Phủ Đặc ủy dành cho việc chống sự xâm nhập của cộng sản?
 
Hỏi như thế vì tôi mới đọc một cuốn sách mới xuất bản ở trong nước nhan đề “Văn Khoa, một thời sống đẹp”, nhiều tác giả, trong phần tài liệu cho thấy rằng, cộng sản đã cài đặt được tổ chức Thành đoàn trong giới sinh viên Văn Khoa kể từ năm 1966 đến sau này. Nghĩa là 5 năm trước khi ta có A17.
 
– Năm 1966-1967. Chủ tịch là Lê Quang Lộc, thủ quỹ là Huỳnh Quan Thi
– Năm 1967-1968. Chủ tịch Trần Khiêm, thủ quỹ Nguyễn Thị Yến. Kèm theo một ban chấp hành gồm các tên như Huỳnh Quan Thư, Lê Tấn Lộc, Trịnh Xuân Nùng, Nguyễn Thanh Tòng, Lê Văn Thành và Nguyễn thị Minh Châu.
– Sau đó chia ra nhóm Triết: có Trương Văn Hùng, Bùi Văn Nam Sơn. Nhóm Nhân văn có Lê Đao Ngạn. Nhóm Anh văn có Nguyễn Sĩ Minh. Nhóm vận động quy chế hoãn dịch là Trần Văn Long, Nguyễn Thanh Tòng.

Và cứ thế tiếp theo các năm khác cho đến 1972(18). Các khóa sau còn có Hạ Đình Nguyên, Ngô Đa, Đoàn Khắc Xuyên, Đỗ Trung Quân, Trần Long Ẩn, Lâm Bá Phát, Bùi Văn Nam Sơn, Lê Đạo Ngạn, Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết). Đã nói đến Nguyễn Ngọc Phương thì phải nói luôn đến Cao Thị Quế Hương.
 
Nhiều tên tuổi này chắc không xa lạ gì đối với các anh Bửu Uy và Bạch Diện Thư Sinh.
 
Đây chúng ta chỉ nói tới mặt hoạt động nổi của Thành đoàn. Hoạt động chìm là những thành phần nồng cốt có thẻ đảng thì cần đọc thêm trong cuốn “Trui rèn trong lửa đỏ” (Tập Ký Sự Truyền Thống Thành Đoàn của Trần Bạch Đằng.)
 
Nhưng vì nhu cầu tình thế, chúng được tung ra hoạt động. Đây cũng là mục tiêu cuốn sách của tác giả Bạch Diện Thư Sinh nhan đề “Mặt trận Đại Học”.
 
Phủ Đặc ủy còn cài đặt cơ quan, tai mắt của mình ở một số nước lân cận. Nhưng việc cài đặt này nhiều khi không căn cứ trên khả năng và công tác, mà do quyền lợi phe phái quen biết. Kể từ khi thành lập từ năm 1961, Phủ Đặc ủy Trung Ương tình báo không tạo được cái thế giá và tiếng vang về tính hiệu quả của cơ sở.
 
Nó lặng lờ như một cơ quan hành chánh, làm công việc nghiên cứu hồ sơ mỗi khi có biến động chính trị thì chỉ việc thay đổi người đứng đầu.
 
Một nhân viên trong sở tình báo nói, “mặc dầu có chức vụ, công việc của tôi đúng là công việc cạo giấy, sáng đi tối về. Muốn kiếm ăn, có tiền thì đi chỗ khác làm.”
 
Một người khác khi được hỏi về thành quả trong phủ Đặc ủy, sau nhiều năm trời đạt được kết quả gì. Ông có vẻ ngao ngán, “90% thời giờ và công việc nhằm bảo vệ an ninh cho Tổng Thống Thiệu”. Ngay chính ông Long, nghe nói có quan hệ thân thuộc với bên bà Thiệu, ông làm việc hăng say cũng chỉ vì muốn bảo vệ an ninh cho ông Thiệu.
 
Phần ông cố vấn đặc biệt Nguyễn Văn Ngân khi được nhà báo Trần Phong Vũ phỏng vấn cách đây 6, 7 năm về công việc của ông Thiệu [loạt bài phỏng vấn đó chấm dứt bất ngờ, nội dung dang dở, không có kết luận – DCVOnline]. Ông cố vấn đặc biệt của tổng thống Thiệu đã thành thật cho biết 90% thời giờ của ông Thiệu nhằm canh chừng người Mỹ. Thế thì còn lại bao nhiêu thời giờ lo cho dân, cho quân đội?
Tướng Nguyễn Khắc Bình nắm cơ quan này từ 1968 đến 1975, thời kỳ với rất nhiều xáo động chính trị, cộng sản nhan nhản khắp nơi, khắp cơ quan chính quyền mà hình như chính quyền tỏ ra quá lúng túng và hầu như bất lực!
 
Cái cảm giác của tôi trong thời kỳ này là rất bực dọc, đi đâu cũng bị ngăn chặn bởi rào kẽm gai. Mà nếu đụng vào lúc cảnh sát ném lựu đạn cay thì sui quá. Người chỉ huy và điều hành cảnh sát thời bấy giờ dẹp biểu tình là ông Trang Sĩ Tấn.
 
Tôi rất ác cảm với ông này!
 
1970. – Tại Miền Nam VNCH ) Hoàng Phủ  Ngọc Tường ( Một sinh viên Huế thân Cộng Sản ) – com-lê, ca-vát – đứng trước micro. Bên phải HP Ngọc Tường, người mang kính đen, sơ-mi trắng ca-vát – hai tay chắp trước bụng, đứng hiền khô là “Ðại diện Ty Cảnh Sát Thừa Thiên đến chứng kiến như là giữ an ninh cho buổi diễn thuyết theo “quyền tự do phát biểu chính kiến của công dân .” Nguồn: OnteNet
1970. –  Hoàng Phủ Ngọc Tường  com-lê, ca-vát đứng trước micro. Bên phải HP Ngọc Tường, người mang kính đen, sơ-mi trắng ca-vát, hai tay chắp trước bụng, là “Ðại diện Ty Cảnh Sát Thừa Thiên đến chứng kiến như là giữ an ninh cho buổi diễn thuyết theo “quyền tự do phát biểu chính kiến của công dân .” Nguồn: doithoaionline

Tôi nghĩ trong bụng theo cách suy nghĩ đơn giản của tôi là ông chỉ đi dẹp biểu tình cũng không xong. Nếu là tôi, tôi sẽ chụp hình, xem thằng nào cầm đầu, xem thằng nào hô to nhất, xem thằng nào hung hăng ra vẻ chỉ huy. Ngay đêm đó cho người đến nhà nó, dí súng vào thái dương nó; nếu nó có bồ, cho người bắt luôn dọa bắn con bồ nó cho đến khi nào nó ướt quần, và lạy van; cho nó ăn một trận đòn thừa sống thiếu chết, cho nó nhịn đói 3 ngày, vứt nó vào chỗ cần vứt cho nó tởn. Tên Vũ Hạnh, tên Huỳnh Tấn Mẫm và nhiều tên khác cứ nhởn nhơ như đùa giỡn với an ninh thì còn ra thể thống gì. Nhân viên kém thì cho ra theo học khóa cấp tốc bồi dưỡng với mật vụ Ngô Đình Cẩn tất phải khá.
 
Trong lúc tức quá, giận quá nghĩ thế thôi, chứ ai đời thường dân lại đi dạy cảnh sát hành động; thế thì khác gì dạy đĩ vén váy!
 
Nhưng nghiêm chỉnh mà nói, ta làm việc quá yếu. Phải có một chính sách đặc biệt đối với những tên khủng bố cộng sản. Một chính sách khủng bố, bạo lực mang tính nhà nước. Terreur d’état. CIA có làm khác không?
 
2. Sở Nghiên cứu chính trị và xã hội của ông Trần Kim Tuyến
 
Ngoài Phủ Đặc ủy, người ta không thể quên trước đó có “Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội” của ông Trần Kim Tuyến. Tên là sở nghiên cứu chính trị nghe rất hiền lành. Số nhân viên không quá vài chục người. Nhưng lại là đầu não trong các hoạt động mật vụ, đặc biệt là liên quan đến an ninh Phủ Tổng thống. Và ông Tuyến chẳng bao lâu sau trở thành một thứ huyền thoại, một thứ Trùm Mật vụ mà quyền uy chỉ đứng sau ông Nhu. Nhiều người sợ nhóm mật vụ của ông Tuyến(19). Mặc dù không có bề thế, số nhân viên có giới hạn mà người ta có cảm tưởng nó mạnh, nó hữu hiệu hơn các hoạt
động của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo.
 
3. Ngành Đặc Biệt (N.Đ.B., The special Branch)
 
Ngành Đặc biệt, N.B.Đ do thủ tướng Trần Thiện Khiêm trực tiếp điều động, chủ nhiệm chương trình với sự phối hợp chặt chẽ của trùm mật vụ William Colby với chiến dịch Phượng hoàng(20). Chương trình này trên thực địa đã giúp một phần không nhỏ vào an ninh, trật tự. Nhưng chương trình này tồn tại không bao lâu khi chương trình Việt Nam hóa chiến tranh thành hình vào 1969. Chương trình Phượng Hoàng, suốt 6 năm dài (1969-1975) đã được coi như một sách lược quốc gia trọng yếu về mặt chính trị. Mục tiêu của chương trình Phượng Hoàng nhằm tiêu diệt hạ tầng cơ sở Việt cộng hầu vô hiệu hóa mọi hoạt động khuynh loát, gây hấn, bạo động, phá hoại.
 
Nhưng rõ ràng là chiến dịch Phượng Hoàng nhằm bình định nông thôn hơn là thành thị(21). Rất tiếc, cuốn sách của đại tá Nguyễn Mâu viết về Ngành Đặc Biệt ít được ai lưu tâm tới.
 

Vài lời kết luận

Cuốn sách như tôi đã trình bày đạt được một số yêu cầu của người đọc. Và cái quý của nó được coi như cuốn sách đầu tiên viết về vấn để này. Tuy nhiên, tác giả chưa có điều kiện để trình bày cho rõ đầy đủ, vì những lý do gì Thành đoàn cộng sản đã có thể dần dần cài đặt người trong các tổ chức sinh viên của các phân khoa đại học Sài Gòn.
 
Phần người viết, xin nhận những thiếu xót không thể tránh được vì không nắm rõ được tổ chức của Phủ Đặc ủy.
 
Để bù vào những thiếu xót đó, người viết cũng đã điện thoại trực tiếp cho tướng Nguyễn Khắc Bình để nếu có thể nhờ ông giải thích cho những điểm còn chưa rõ. Rất tiếc, dù đã để lại tin nhắn, tướng Bình cũng không gọi lại. Việc không gọi lại, người viết coi như một cách thức gián tiếp ông muốn từ chối không muốn nói chuyện. Nhưng vẫn hy vọng khi ông đọc bài này thì sẽ liên lạc lại.
 
Cái thiếu xót của người viết bài này là không nắm rõ được tổ chức cũng như hoạt động của cụm tình báo quốc ngoại tại các quốc gia lân cận như Lào, Cao Miên, Thái Lan. Ví dụ, trước đây Mật vụ Trần Kim Tuyến đã đột nhập tòa đại sứ Thái Lan ăn cắp tài liệu bị đổ bể và phải xin lỗi muốn chết.
 
Tại Cao Miên, Phủ Đặc ủy có trực tiếp tham dự vào việc lật đổ Sihanouk không, cũng như việc ủng hộ cho Lon Nol lên làm tổng thống. Việc này có thể ông Long trước từng làm việc với đại sứ Phước ở bên Cao Miên có thể biết rõ hơn. Vấn đề là vai trò của Phủ Đặc ủy như thế nào? Vì việc thanh toán Sihanouk cũng không thành.
 
Về những vấn đề quốc nội, khi tổng thổng Nguyễn Văn Thiệu chà đạp lên hiến pháp, muốn lập pháp cho tổng thống tranh cử kỳ thứ ba cũng như kéo dài thời hạn tổng thống 4 năm thành năm năm. Vai trò Phủ đặc ủy như thế nào bên cạnh Nguyễn Văn Ngân? Chẳng hạn như vai trò đi tiếp xúc, môi giới, đưa tiền cho mỗi lá phiếu thuận mà số tiền có thể lên đến từ 500.000 đến 600.000 đồng. Mình ông Nguyễn Văn Ngân có thể làm xuể công việc này hay không?
 
Vai trò cảnh sát thì đã rõ ràng là cho lệnh ngăn chặn biểu tình? Nhưng còn việc đi truy bắt dân biểu Trần Ngọc Châu thì vai trò mật vụ của Phủ Đặc ủy như thế nào? Đồng thời cũng đi săn lùng bắt dân biểu Ngô Công Đức chạy vắt giò lên cổ, rồi sau đó phải trốn đi đường bộ sang Nam Vang thì đó là công tác và trách nhiệm của ai? Ai ra lệnh? Không lẽ, chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đi bắt?
 
Khi có phong trào Nhân Dân chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh và liệt kê những vụ tham nhũng của T.T. Nguyễn Văn Thiệu thì Phủ Đặc ủy đã làm gì?
 
Đường giây tham nhũng của cả ông Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm như buốn nha phiến, thuốc phiện lậu về qua ngả phi trường Tân Sơn Nhất hay đường biển. Người của tướng Bình như các vị tư lệnh cảnh sát đã nắm giữ vai trò gì? Che dấu, đồng lõa, tạo điều kiện thuận lợi cho qua và cuối cùng chia phần?
 
Tướng Nguyễn Khắc Bình là tay chân thân tín của hai vị đứng đầu nước, được giao phó những trách nhiệm về an ninh lại có thể đứng ngoài cuộc? Khởi đầu cuộc chống tham nhũng là một cuộc biểu tình ở Huế chống T.T. Nguyễn Văn Thiệu ở miền Trung thì Phủ Đặc ủy có ra lệnh đăc biệt gì cho ông Liên Thành, cảnh sát trưởng ở Huế trong thời kỳ đó? Và kết quả ông Liên Thành đã làm việc ra sao?
 
Và một lời cuối với tác giả cuốn sách “Mặt trận Đại học”. Nếu phần chính tác phẩm coi như ổn đi thì phần phụ lục không ổn. Nếu có thể, khi tái bản nên xét lại phần này vì xem ra nó không phù hợp với nội dung chính của cuốn sách. “Phong trào Văn Thân”, v.v. nên thay vào đó bằng một cái gì khác.
Cái khác đó là những bài phỏng vấn giới lãnh đạo của Phủ Đặc ủy về mặt tổ chức, mặt nhân sự, những thiếu sót cũng như thành quả của Phủ Đặc ủy từ khi mới thành lập đến 1975.
 
Tôi nghĩ như thế thì cuốn sách trọn vẹn hơn.
 


 
(16) Nguyễn Văn Minh, “Dòng họ Ngô Đình, giấc mơ chưa đạt”, trang 448-486
(17) Tại Phủ Tình Báo, các người lãnh đạo lần lượt là các ông trung tá Lê Liêm, đại tá Nguyễn Văn Y, tướng Mai Hữu Xuân, tướng Nguyễn Ngọc Loan, tướng Linh Quang Viên, rồi tướng Nguyễn Khắc Bình và người cuối cùng là ông Nguyễn Phát Lộc
(18) Trích “Văn Khoa, Một thời sống đẹp”, theo tài liệu Lược sử Đoàn và Phong trào Thanh Niên Thành phố, trang 461-472.
(19) Ngoài ông Tuyến, còn có một nhân vật ‘chìm’ rất có ảnh hưởng đến ông Diệm. Đó là ông Hoàng Bá Vinh được ông Diệm rất tin dùng. Khi Ông Tuyến bị thất sủng thì ông Dương Văn Hiếu (Phó Tổng Giám đốc Công an) đã tính đề nghị ông Nhu để ông Hoàng Bá Vinh lên thay. Hôm đảo chính, tiếc thay ông Hoàng Bá Vinh không có mặt ở Sài Gòn, vì ra Huế dự lễ mừng sinh nhật ông Cẩn và khi về Sài Gòn ngày mồng 2 tháng 11 thì số phận ông Diệm-Nhu đã bị định đoạt rồi.
(20) Tài liệu của Trung tá Nguyễn Mâu N.Đ.B, tập II, 2009, trang 53: “kết quả là năm 1968 có 11.288 việt cộng bị bắt, 2.200 bị giết, 2.290 quy thuận. Năm 1969, 8.515 bị bắt, 4.832 bị giết, 6.187 quy thuận.”
(21) Nguyễn Mâu, “N.Đ.B, ngành đặc biệt”, Tập II, trang 13.

Những CON MA TRÊN MẠNG



Mấy CON MA: "Đừng phá phách trang blog này nửa !"

Sẽ có một ngày con người hôm nay
Vất súng vất cùm, vất cờ vất đảng
Đội lại khăn tang quay ngang vòng nạng oan khiên
Sẽ có một ngày con người hôm nay
Về với miếu đường mồ mả gia tiên
Hàng chục năm qua bức bách nhạt nhòa cho quên
Và hận thù xưa như làn hương thu tan về cao rộng
Tất cả lùa qua một cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa kia bạo lực xô chân sống sót về đây
Nghe tiếng bình tâm an nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên xum họp hàn huyên huynh đệ tương thân
Đứng bên nhau trên mất mát quây quần
Kẻ bùi ngùi rưng rưng đặt vòng hoa ngộ lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng
Sẽ có một ngày khắp nẻo quê hương
Tiếng sáo mục đồng êm ả ngân nga
Và bài hùng ca là tiếng sáo diều bao la
Sẽ có một ngày vất cờ vất đảng
 
 
 

                                                                    

Mỹ cân nhắc tiến vào vùng 12 hải lý quanh các đảo tranh chấp ở Biển Đông







Nhân vật Huỳnh Phú Sổ trong thơ – Tac gia Vien Linh




Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ,



Từ những ngày đầu ở miền Nam, 1954, khi còn trong tuổi thiếu niên, người viết bài này đã nghe nói đến nhân vật Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo, được nhìn thấy hình ảnh ông với gương mặt thanh thoát, sáng láng, và mái tóc dài khác thường, được nghe đọc đôi câu sấm giảng của nhà lãnh đạo tôn giáo trẻ tuổi, nhưng không được đọc đầy đủ.

Trong mấy năm gần đây, một đoạn thơ đã khiến nhân vật Huỳnh Phú Sổ sáng lên trong tôi lại chính là thơ của ông, đó là đoạn thơ vượt lên trên thơ đạo, trong đó nhà lãnh tụ nói đến nạn đói mà năm 1945 mà khi còn thơ ấu tôi đã chứng kiến, cái bánh nếp cầm trong tay đang ăn dở dang khi tôi đứng trước cửa nhà mình trên phố Ðồng Văn, đã bay xoẹt khỏi tay tôi, biến mất trong miệng một thanh niên đen đủi vừa xẹt vèo qua, cướp cái bánh và nó biến mất trong cái miệng đen ngòm, khuôn mặt với hai hố mắt trắng dã, làn da đen đủi. Nạn đói ấy khiến hơn hai triệu người các tỉnh Thái Bình, Nam Ðịnh chết rụi dọc quốc lộ xuyên Việt, cả đoạn phố trước cửa nhà tôi, trải dài lên Hà Nội, ra Hải Phòng. Chính Huỳnh Phú Sổ đã đọc thơ ở Sa Ðéc thúc đẩy người dân miền Nam phải làm việc cứu nạn đói ấy; bài thơ của vị giáo chủ, và cuốn sách kể lại việc này, đã khiến tôi kính trọng nhân vật đã nghe đã biết từ nửa thế kỷ trước, một cách khác hẳn.

“Một hôm Triệu đến viếng cụ cử Võ Hoành. Cụ cho hay phải ở lại tham dự buổi lễ ra mắt của Hội Truyền Bá Quốc Ngữ địa phương. Ðồng thời cụ cũng bảo phải đi nghe ông Huỳnh Phú Sổ thuyết giảng và khuyến nông vì ở Bắc và Trung hiện có nạn đói trầm trọng. Ðây là dịp đầu tiên Triệu có cơ hội gặp vị giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo.

“Khi Triệu đến chợ Sa Ðéc thì đã thấy rất đông dân chúng vây quanh ông Huỳnh Phú Sổ, một người dáng trông thanh lịch, rất trẻ, tóc để dài ngang vai, có cặp mắt rất sáng. Ông nói năng giọng sang sảng nhưng chậm rãi, cử chỉ từ tốn. Ðồng bào càng lúc càng đến đông nhưng rất im lặng, trật tự. Vài người nói nhỏ với nhau: ‘Thiên hạ nay đến nghe Ðức Thầy rất đông. Lúc trước còn Tây ở đây, lính kín đến nghe Thầy còn đông hơn dân chúng.’

“Bài Khuyến Nông của ông đã thật tình giúp người nông dân mộc mạc, khiêm tốn, nay hãnh diện ý thức được vai trò của mình và lo lắng cho đồng bào ruột thịt tận miền Trung, Bắc:

“Hỡi đồng bào! Hỡi đồng bào!
Thần chết đã tràn vào Trung Bắc...
.... Kẻ phu tá cũng là trọng trách,
Cứu giống nòi quét sạch non sông
Một mai vác cuốc ra đồng
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.
Nam Kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung cấp cho miền Bắc Trung.
Miễn sao cho cánh đồng Nam
Dồi dào lúa chín gặt đem về nhà
Chừng ấy mới hát ca vui vẻ
Ai còn khinh là kẻ dân ngu.”

(Huỳnh Phú Sổ, Khuyến Nông)

Buổi thuyết giảng mở đầu bằng “Khuyến Nông” sau đó đã được ông Huỳnh Phú sổ chuyển qua dạy về Tứ Ân của Phật Giáo Hòa Hảo: Ân Tổ Tiên Cha Mẹ, Ân Ðất Nước, Ân Tam Bảo, Ân Ðồng Bào Nhân Loại. Ông nhắc cho tín đồ cách tu giản dị: chỉ cần một bàn Thông Thiên ngoài trời, bàn thờ Phật và bàn thờ Ông Bà trong nhà nhưng không tượng Phật, chỉ cúng nước lã, bông hoa và đèn hương. Có nhang thì đốt, không có thì nguyện không. Phật Giáo Hòa Hảo không chủ trương cất chùa, đúc tượng Phật, không dùng chuông mõ. “Nên dùng tiền cứu người nghèo khổ, thay vì cất chùa to, đúc tượng lớn.”

“Ông Huỳnh Phú sổ đã phổ biến giáo lý Phật Giáo với những lời thơ bình dân, dễ hiểu, dễ nhớ. Suốt buổi giảng ông không dùng ngôn ngữ cầu kỳ, những ý nghĩ trừu tượng. Sấm giáng, thi văn của ông phù hợp với trình độ đại chúng nông thôn và đáp ứng được tâm lý quần chúng vốn không thể lãnh hội được thiên kinh, vạn quyển của giáo lý Phật Giáo.”

“Buổi đầu tiên được nghe Huỳnh Giáo chủ thuyết giảng, ấn tượng một người trẻ nhưng phi thường đã ám ảnh Triệu suốt nhiều năm tháng và Triệu đã có ý định cần phải tìm hiểu về chủ trương Phật Giáo Dân Tộc này. Sau khi phong trào Nam Kỳ Khởi Nghĩa thất bại, thành phần nông dân là bộ phận bị chánh quyền thực dân đàn áp hung bạo nhất. Ý chí tập hợp đâu tranh người dân quê tưởng chừng như đã bị tan rã. Thế mà dân chúng nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu lại đã đáp ứng nồng nhiệt và gia nhập Phật Giáo Hòa Hảo của ông Huỳnh Phú Sổ. Việc ấy chắc hẳn phải có lý do cần được tìm hiểu sâu rộng hơn.” (1)

Cuốn sách còn cho thấy trong những ngày đầu của Nam Bộ kháng chiến, 1945, “phần đông các đại biểu đảng phái không biết Việt Minh là ai, nhưng Triệu (tức Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu) nghe nói lúc ấy chỉ có ông Huỳnh Phú Sổ Phật Giáo Hòa Hảo là có phát biểu như đùa: ‘thì Việt Minh có đâu đây, cần gì phải đi xa mà kiếm gfgg Sau này khi các sự việc khác xảy ra, nhiều người tự hỏi không biết lúc đó ông Huỳnh Phú Sổ muốn nói Việt Minh đã có tiếp xúc với ông rồi, hoặc ông muốn ám chỉ đến Trần Văn Giàu lúc đó đã tìm cách len lỏi xin vào đảng phái quốc gia độc lập [của Hồ Văn Ngà]?

Ðể chống lại toán tính của Pháp trở lại Việt Nam qua phái đoàn đồng minh giải giới Nhật, lực lượng các đoàn thể quốc gia Nam bộ thành lập được bốn sư đoàn: đệ nhất sư đoàn của Việt Minh (Trần Văn Giàu), đệ nhị sư đoàn của Cao Ðài, đệ tam sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp (Quốc Dân Ðảng miền Nam) và đệ tứ sư đoàn của Phật Giáo Hòa Hảo. Thình lình có thông cáo Trần Văn Giàu tự phong là Lâm ủy Hành chánh chỉ huy tất cả. Trần Ngươn Phiêu viết: “Việc làm [của Việt Minh Cộng Sản Trần Văn Giàu] trái với tinh thần đoàn kết quốc dân trước hiểm họa Pháp thôn tính tái xâm lăng đã làm dân chúng bất bình và hoang mang. Năm ngày sau, tức vào ngày 30 tháng 8 (1945), Lâm ủy Hành chánh mở phiên nhóm Hội nghị Khoáng đại, có báo chí tham dự. Ông Huỳnh Phú Sổ và Trần Văn Thạch đã đứng lên chất vấn Trần Văn Giàu: ‘Ai đã cử [anh làm] Lâm ủy Hành chánh Nam bộ?’ Trần Văn Giàu đã trả lời Trần Văn Thạch với giọng du côn và thách thức, tay mặt vỗ vào cây súng ngắn đeo bên hông... báo trước chủ trương thủ tiêu đối lập về sau này.” (tr. 110-111).

Chuyện đã xảy ra rất nhanh, chỉ một tuần sau. Cuốn sách cho thấy Cộng Sản rất e ngại lực lượng Hòa Hảo, nên “Ngày 8 tháng 9, 1945, tin tức Cần Thơ cho biết là Trần Văn Giàu đã chỉ thị cho địa phương nổ súng đàn áp tín đồ Hòa Hảo vốn không võ trang,... Nhiều người đã chết và bị thương. Cuộc khủng bố tín đồ Hòa Hảo bắt đầu từ đó khiến khám đường Cần Thơ không còn đủ chỗ chứa.” (trang 119). Cán bộ cao cấp Phật Giáo Hòa Hảo đều bị bắt ở khắp các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Ðốc, Sa Ðéc, Vĩnh Long, Trà Vinh... Cán bộ chỉ huy cuộc biểu tình ở Cần Thơ đều bị bắt gồm có Huỳnh Thành Mậu, em của Huỳnh Phú Sổ, Trần Văn Hoành, trưởng nam của Trần Văn Soái, Nguyễn Xuân Thiếp, tức nhà thơ Việt Châu, em của nhà văn Nguyễn Hiến Lê. Nhà thơ-nhà văn Việt Châu là đại diện của Ðức Thầy Huỳnh Phú Sổ được phái ra Hà Nội tiếp xúc với Tổng Bộ Việt Minh. Cả ba đều bị xử tử ở sân vận động Cần Thơ. (tr.119)

Báo chí miền Nam nhiều tờ có đăng những bài thơ họ viết là “sấm giảng” của Ðức Thầy, như ông Hồ Nhựt Tân có biệt danh Thất Sơn Cư Sĩ đọc vài bài cho báo chí rồi diễn ra, nói rằng Ðức Thầy biết trước những biến cố sẽ xảy ra trên đất nước, song chúng tôi không thấy chứng từ nào xác đáng. Hồi Ðệ Nhất Cộng Hòa năm 1962 ông này có ra ứng cử tổng thống đối lập với ông Ngô Ðình Diệm. Có những đoạn như:

Chó tru ba tiếng cho tru
Hơi oan nghiệt nổi mịt mù bến mê
Lòng khùng nghĩ lại tái tê
Tây thành cảm nỗi tư bề tan hoang.

Trong bài giải ‘Bến mê” là bờ sông Mê Công, hay là một đoạn khác:

Chó này đi heo nọ lấn sang
Chuột kêu nước Việt giang san
Nào ai tế độ nào trang cứu đời
Ngẫm âu muôn sự tại trời
Tu nhân tích đức ấy thời thoát qua
Ơn trời đất, ơn mẹ cha
Ơn Phật thánh với sơn hà chớ quên.

Có nhắc đến Tứ Ân của Ðức Thầy, như có nói ở trên, song chúng tôi không đủ tài liệu chính xác để kết luận. Một bài thơ “Khuyến Nông” và hành trạng vị giáo chủ, dù chỉ mấy trang trong sách Trần Nguơn Phiêu, đủ để vẽ ra một chân dung đầy tin tưởng.

(Viên Linh, viết tại Quận Cam trước Lễ Kỷ Niệm 76 năm Khai sáng Phật Giáo Hòa Hảo, 1939-2015)


Chú thích:

1. Gió Mùa Ðông Bắc, tự truyện Trần Nguơn Phiêu, 95-97, Hải Mã xuất bản, 2008. Trần Nguơn Phiêu sinh năm 1927 tại Gia Ðịnh, lớn lên ở quê nội Cao Lãnh Sa Ðéc và quê ngoại, ấp Phước Lư, Biên Hòa. Thuở niên thiếu là học sinh các trường Trung học Petrus Ký và Chasseloup Laubat. Ông tham gia kháng chiến khi còn rất trẻ, phụ trách báo Nam Thanh của tổ chức Nam Bộ Thanh Niên Kháng Chiến Ðoàn (Nam Thanh Ðoàn). Du học Pháp, tốt nghiệp Y Khoa Ðại Học Bordeaux. Trở về nước, ông đã phục vụ trong ngành Quân Y Hải Quân hơn 17 năm, chức vụ trước khi giải ngũ là cục phó Cục Quân Y Việt Nam Cộng Hòa.

2. Cuốn hồi ký ông gọi là tự truyện, Gió Mùa Ðông Bắc, dày trên 500 trang thể hiện tấm lòng chân thành của ông với cuộc đời, người đọc dễ dàng nhận thấy qua từng dòng, kể cả thời gian tham gia tổ chức kháng chiến ở Nam Bộ và tuổi trẻ ở Pháp, đặc biệt là thời kháng chiến ngay từ những ngày đầu 1944,1945: Trần Nguơn Phiêu đã gặp, đã tiếp xúc và đã tai nghe mắt thấy nhiều sự việc quanh các nhân vật cùng phong thổ miền Nam như ông, những nhân vật đã đi vào lịch sử, những người đã bị Cộng Sản bắt cóc thủ tiêu ám sát: Huỳnh Phú Sổ, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan V. Hùm, Hồ V. Ngà, Huỳnh V. Phương, Trần V. Thạch,... Ông viết như một nhân chứng, với lời căn dặn của Hồ Hữu Tường, sau khi ông Tường đã bật khóc dặn ông: “Anh phải viết.”


Thứ Năm, 21 tháng 5, 2015

ĐẶC BIỆT - Về cuốn “Mặt Trận Đại Học” của Bạch Diện Thư Sinh (II) - Tác giả Nguyễn văn Lục



Giới thiệu và góp ý về cuốn Mặt Trận Đại Học của Bạch Diện Thư sinh
(Tiếp theo phần I)

Chiến sĩ biệt động thành Huỳnh Phi Long đánh một đồn đích đáng vào giặc Mỹ xâm lược tại Nhà hàng nỏi Mỹ Cảnh Saigon. Nguồn: OntheNet/DCVOnline tổng hợp
“Chiến sĩ biệt động thành Huỳnh Phi Long đánh một đồn đích đáng vào giặc Mỹ xâm lược tại Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh Saigon.” [Khủng bố VC Huỳnh Phi Long bí danh Huỳnh Anh Dũng đạt bom giết người trong và ngoài nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, Sài Gòn ngày 25/6/1965]  Nguồn: OntheNet/DCVOnline tổng hợp

Cũng một cách ấy, tôi cũng nhận ra, tại hải ngoại này, chính người quốc gia sợ người quốc gia. Vì thế, họ chụp mũ, vu cáo, bịa đặt cho nhau! Ai cũng có thể là tay sai cộng sản. Và người ta thường mỉa mai chống cộng hay chống nhau!

Đó là biểu tượng tinh thần xã thôn, lấy ta làm trung điểm, là đúng, người khác là sai.
 
Tôi nhấn mạnh là có bốn cuốn sách của phía bên kia viết về mật vụ ông Cẩn với trân trọng.
Có cuốn sách nào của phía bên kia viết về công tác của Phủ Đặc Ủy Trung ương tình báo không?
Trong khi đó chẳng hiểu tại sao có nhiều người quốc gia hận thù ông Cẩn và đánh giá quá thấp ông Cẩn như thế! Trong khi kẻ thù của ông lại nể sợ ông.
 
Mười Hương sau này vào đến Trung Ương Đảng(10) viết về Ngô Đình Cẩn như sau:
Chúng ta lâu nay cứ chê bai thằng Cẩn rằng nó đi guốc mộc, miệng nó nhai trầu bỏm bẻm… chê như vậy nó không đúng đâu. Thằng Cẩn giỏi lắm, có mưu trí lắm. Nếu anh em thằng Diệm mà nghe lời thằng Cẩn thì chưa chắc Diệm đã đổ sớm như vậy đâu. Chính Nhu Thục bảo đàn áp Phật giáo chứ thằng Cẩn bảo không được…’(11)
Sách về công tác mật vụ thời đệ nhị cộng hòa kể là hiếm hoi như vừa nêu trên. Vì thế, tôi đón nhận một cách phấn khởi khi đọc cuốn “Mặt Trận Đại Học” của Bạch Diện Thư Sinh.
 
Trước khi đọc “Mặt Trận Đại Học” thì đã được nghe nói về tác giả cũng như về những người bạn đồng hành, những người mà sau này, do nghề nghiệp nghiệt ngã, chịu đựng những án tù, người 8 năm, người 13 năm và có hai người tù đến 17 năm mấy tháng cho đến lúc đóng cửa trại tù cải tạo. Sự trân trọng, lòng quý mến cũng như sự cảm phục về con người, về tư cách của các anh em ấy cũng như về cách xử xự khi ra khỏi tù càng cho tôi có một cảm tình đặc biệt với họ.
 
Họ là những sinh viên thuộc đủ phân khoa đại học Sài Gòn mà phần đông đã tốt nghiệp đại học nay trở lại trường công tác trong vai trò một điệp báo viên. Họ đã làm công việc của họ trong thầm lặng, trong một tổ chức mà một số quy luật bắt buộc phải tuân theo. Phải nói họ lãnh cái phần thiệt thòi nhất, hy sinh nhiều nhất, nhất là đánh mất tuổi trẻ trong cuộc chiến tranh này.
 
Một phần đời của họ sẽ không bao giờ lấy lại được.
 
Đại bàng gẫy cánh! Không họ chỉ là những con người bình thường trong một xã hội miền Nam mà điều tốt nhiều hơn điều xấu, người tử tế thì nhan nhản ngoài đường phố. Vậy mà họ đã một thời sống nỗi bất hạnh, mất mát của cả một miền đất nước.
 
Nay họ đã trở về. Và họ đã lớn lên. Nhà tù đã không thay đổi được gì nơi họ.
 
Bìa Hồi Ký và hình tác giả Kale lúc trẻ (Lê Anh Kiệt) . Nguồn:  https://sites.google.com/site/lakiet/
Bìa Hồi Ký và hình tác giả Kale lúc trẻ (Lê Anh Kiệt) . Nguồn: https://sites.google.com/site/lakiet/
 
Trong cái tâm tình ấy. Tôi cũng đã đọc cuốn Hồi Ký ngắn, “Một cuộc đổi đời” của anh Lê Anh Kiệt, một sinh viên tốt nghiệp đại học khoa học mà cha theo kháng chiến, gốc miền Nam. Anh không viết gì nhiều về những ngày công tác trong Phủ Đặc Ủy Tình báo, nhưng viết về trại tù cải tạo trong suốt 17 năm. Trước khi đi tù, anh có người vợ trẻ đang mang thai cháu bé. Và khi ra tù thì vợ anh đã bỏ đi rồi.
 
Anh viết với một tấm lòng, với sư trung thực, với một sự chững chạc không kết án ai, nhất là những thiệt thòi bạc bẽo từ nơi mà anh đã từng phục vụ.
 
Ngoài Lê Anh Kiệt, người viết cũng xin được nói tới anh Nguyễn Phúc Bửu Uy, người chủ tịch sinh viên Sài Gòn (1972-1973). Qua điện thoại, với tiếng cười xem ra hồn nhiên, trong sáng. Xem ra anh không phải là người đã từng 17 năm tù trong ngục tù cộng sản? Những câu trả lời của anh rất mực thẳng thắn mà vượt khỏi những ranh giới hận thù.
 
Anh cũng là nhân viên của cụm tình báo A17 và cũng như nhiều anh em khác, cũng như khoảng 500 nhân viên của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo, anh đã bị đi tù cải tạo trong suốt 17 năm và chỉ được thả ra khỏi trại cải tạo ngày 29 tháng 4 năm 1992 cùng với 20 người tù cải tạo cuối cùng, trong đó có bốn tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa. Và một trong những người đó là tướng Lê Minh Đảo – từng được mệnh danh là “Người hùng Xuân Lộc”. Tướng Đảo cũng là người lo giúp đỡ và chăm sóc cho Bửu Uy lúc mới ra tù. Tình bạn của họ nảy sinh từ trong tù, từ những lúc cuộc đời tăm tối, lao đao, khốn khổ nhất.
 
Được hỏi tại sao anh bị đi tù cải tạo lâu như thế? Anh Bửu Uy do dự trả lời, “Có thể mình cũng bướng với họ. Và cũng rất có thể, họ muốn dụ ra làm việc cho họ, nhưng mình từ chối.”
 
Nếu muốn, chúng ta có thể gọi anh là người tù ‘kiệt xuất’. Mặc dầu cha anh cũng là cán bộ phía bên kia. Nhưng đã không giúp đỡ gì được anh cả. Nói chuyện qua điện thoại với anh, tôi có cảm tưởng anh đã vượt thắng được chính mình và nay anh đã coi 17 năm tù ấy như phần đời đã trải qua.
 
Nó cũng làm anh lớn lên về nhiều mặt.
 
Nhưng nghĩ tới anh và nghĩ tới những bạn bè của anh như quý anh Tuân (Pháp), Ngọc Diệp, họa sĩ, Điệp, anh Thắng, cũng 17 năm tù (người phụ trách vụ Huỳnh Văn Trọng) cùng chung nỗi oan nghiệt thời thế.
 
Tôi cũng muốn nhắc đến ông Nguyễn Thành Long, người chỉ huy A17 được anh em quý mến vì sự nhiệt thành, hăng say trong công việc và rất được tướng Bình quý trọng.
 
Tôi có một thắc mắc trong nhiều thắc mắc là liệu công việc của A17 có thể xâm nhập vào cơ sở chùa Ấn Quang, vào đại học Vạn Hạnh không? Bởi vì nhiều phần tử cộng sản đã được cài đặt vào chùa Ấn Quang và họ đã tạo dựng được cơ sở từ nơi chốn thiền môn này?
 
Chẳng hạn, một thí dụ điển hình trong một bài viết của Vũ Tiêu Giang đăng trên báo Độc Lập ngày 12 tháng 8 -71 với tiêu đề như sau: Đồng bào các giới xúc động. 20 sinh viên, học sinh tuyệt thực đã bắt đầu kiệt sức! ‘ Dùi cui xiết chặt vòng vây’ quanh chùa Ấn Quang.
 
Dùi cui thì chắc là công việc của cảnh sát không phải công việc của anh em A17 rồi.
 
Sài Gòn ngày 11 tháng 8 (ĐL) Tiếp xúc với báo chí sáng thứ tư tại chùa Ấn Quang, T.T. Huyền Quang phát ngôn viên chính thức của giáo hội Việt Nam Thống Nhất Ấn Quang lên tiếng cho rằng nếu đại tướng Dương Văn Minh rút lui thì cũng chỉ vì ông Thiệu đã gia công tối đa cố chèn ép các liên danh đối lập và như vậy cuộc bầu cử đơn độc chỉ có một mình liên danh chính quyền thì hóa ra một trò khôi hài có một không hai trên thế giới.
 
Khi đưa ra nhận định trên T.T. Huyền Quang còn lớn tiếng tiên đoán rằng: ông Thiệu dù bình tĩnh đến đâu cũng không gạt nổi sự lo ngại về đảo chánh, tranh cử đơn độc trưng cầu dân ý để bảo đảm pháp lý tổng thống sau 3 tháng 10- 1971.
 
Lên tiếng về dư luận cho rằng Đại sứ Bunker về Hoa Thạnh Đốn có liên can đến vấn đề bầu cử tổng thống, nhất là liên danh Kỳ-Lễ bị loại bỏ. T.T. Huyền Quang nói rằng dư luận thấy rõ tại Hoa Thạnh Đốn chứ không phải Đại sứ Mỹ ở Việt Nam đang bối rối trước trò chơi dân chủ tháng 10 sắp tới đây có thể có lợi cho Mỹ hoặc cũng có thể có hại cho chính sách ngoại giao Mỹ với thế giới và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 1972.
 
Một nhà sư tạm bỏ kinh kệ để bàn luận chính trị cũng đến là hay. Tôi đồng ý với T.T. Huyền Quang trò bầu cử độc diễn này thật là khôi hài. Nhưng nếu đã là khôi hài thì còn chấp làm gì và xúi các thanh niên sinh viên tuyệt thực đến đói lả? Thật là tội nghiệp cho các cô cậu ấy. Cuộc tranh đấu tuyệt thực xem ra thiếu tính chính nghĩa. Đó có phải là công việc của một nhà sư? Hay đó chỉ là cái bệnh tinh thần xã thôn, xía vô và gây rối?
 
Một số nhỏ nhà sư, gốc gác miền Trung, mang sẵn tinh thần xã thôn, lấy vùng địa lý của họ làm điểm tựa, đã liên tục quấy phá chính quyền trong suốt nhiều năm như thế.
 
Và xin hẹn trong bài sau sẽ phân tích kỹ càng về họ.
 
Tướng Nguyễn Khắc Bình- Phủ Đặc Ủy như lá che chắn cho chế độ
 
Có một câu hỏi mà tôi mong muốn các nhân viên từng phục vụ trong Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo cho tôi một câu trả lời là: Từ năm 1968 cho đến 1975 dưới quyền lãnh đạo của tướng Bình, Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo đã làm được những công trạng gì? Câu trả lời mà mọi người ở bên ngoài đều muốn biết sự thật. Tất cả những nhân viên tình báo trong cụm A17 đều có vẻ e dè không muốn trực tiếp trả lời!
 
Ông Nguyễn Khắc Binh, cựu Đặc ủy trưởng, ĐUTƯTB trong buooit Hội ngộ A17. Nguồn: Hoàng lan Chi
Ông Nguyễn Khắc Bình, cựu Đặc ủy trưởng, ĐUTƯTB trong buổi Hội ngộ A17, 14/12/2014 (Ridgeview Way, San Jose, USA) . Nguồn: vietbao.com
 
Cuốn sách của tác giả Bạch Diện Thư Sinh thì càng kín đáo đến hầu như tôi không thấy tên tướng Nguyễn Khắc Bình trong cuốn sách, người chỉ huy cao cấp nhất của cụm A17. Thế nghĩa là thế nào? Tôi thấy chỉ có một lần tướng Bình được nhắc tới trong việc thành lập A17 mà thôi(12). Sự im lặng ấy mang ý nghĩa gì? Sự nhắc tới như thể không nhắc đến tên người chỉ huy của mình trong toàn cuốn sách, phải chăng tự nó đã là một ân huệ?
 
Vì thế, tôi không thể không nghĩ đến người chỉ huy của Phủ Đặc ủy Trung Ương Tình báo: Tướng Nguyễn Khắc Bình. Giống như các cấp chỉ huy cao cấp trong chính quyền miền Nam. TT Nguyễn Văn Thiệu đã chuyển giao quyền hành cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trước đó, đã mời ông Nguyễn Bá Cẩn ra giữ chức vụ Thủ tướng, thay cho thủ tướng đương nhiệm là Trần Thiện Khiêm vừa từ chức. Nhiệm kỳ của Thử tướng Nguyễn Bá Cẩn kéo dài 10 ngày, từ 14/4 đến 23/4/1975. Phần Tướng Nguyễn Khắc Bình, theo một người nhân viên làm tại Phủ Đặc Ủy cho hay, tướng Bình đã ‘ép’ ông Nguyễn Phát Lộc, đốc sự thượng hạng, ngoại hạng phải nhận chức Đặc ủy Trưởng thay ông, mặc dầu ông Lộc từ chối không muốn nhận.
 
Ông Lộc, một công chức già, người từ tốn, kín đáo, không khoe khoang khoác lác, có hiểu biết rộng, không quen biết nhiều, sau đó đóng vai ‘Con dê tế thần’ hay nói cho đẹp là ‘Lê Lai cứu Chúa’, ông cũng như mọi anh em khác trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương tình báo phải đi học tập.
 
Sau đó, ông Nguyễn Phát Lộc đã chết trong trại học tập tại Nam Hà!
 
Cộng sản vào thì ai cũng sợ, ai cũng tìm đường cho mình một con đường thoát hiểm. Nhưng vẫn cần có một Sirik Matak, một Nguyễn Khoa Nam chứ!
 
Thư của Thủ tướng Cambodia Sirik Matak gởi Đại sưa Mỹ tại PnomPenh John Gunther Dean
 
Giá lo xong được cho đồng đội, rồi muốn đi đâu thì đi vẫn là điều tốt đẹp nhất.
 
Tôi còn nhớ F. Snepp có phận sự lái xe đưa hai ông Thiệu và Khiêm ra phi trường theo lệnh của Polgar. Lộ trình của T.T. Nguyễn Văn Thiệu là phải ghé qua đón thủ tướng Khiêm, sau đó trên xe, F. Snepp còn đặn dò T.T. Nguyễn Văn Thiệu phải cúi rạp xuống sàn xe kẻo lính gác cổng trông thấy sẽ tức giận nổ súng. F. Snepp còn cắc cớ hỏi, bà Nguyễn Văn Thiệu giờ này đang ở đâu?
 
Ông Thiệu trả lời “nhà tôi đã đi sớm và giờ này đang đi mua sắm đồ ở Londres.” Chỉ một câu trả lời một cách tự phát này thôi đủ đánh giá cuộc đời làm Tổng Thồng của ông Thiệu.
 
Về tướng Nguyễn Khắc Bình thì một trong số những người cận vệ của ông khi vào tù có kể cho bạn bè nghe là: Ông Bình đã lặng lẽ ra đi, và không từ biệt cũng như chào hỏi bất cứ nhân viên dưới quyền nào. Người cận vệ ấy kể thêm – không biết đúng hay sai – là tướng Bình đã rút ra 5000 đô la cho người nhân viên này!
 
Chữ tướng Bình “lặng lẽ ra đi” là chữ của Huy Đức, tác giả “Bên Thắng cuộc” dùng. Xin trả lại cho tác giả Huy Đức.
 
Ông Lâm Lễ Trinh thì mỉa mai hơn, viết:
‘Sáng 29-4-1975, Sài Gòn hoảng loạn hoàn toàn, Tướng Nguyễn Khắc Bình đã bỏ chạy, chỉ có Phó Tổng Giám đốc cảnh sát Phạm Kim Quy. Quy cho biết y chỉ có thể điều động được một sư đoàn cảnh sát dã chiến và sẽ cố gắng thi hành chỉ thị của ông tổng thống Minh, giữ trật tự trong đô thành(13).
Theo một nhân viên làm tình báo ở Phủ Đặc Ủy Trung Ương trong nhiều năm có viết cho tôi nội dung như sau:
 
‘Chiều 29 tháng tư, trước khi rời cơ quan, ông phụ tá Nguyễn Phát Lộc cũng chờ đợi như một số anh em từ sáng tới giờ, nói với chúng tôi: Ông Long và đại tá Nguyễn Tấn Lợi được cử sang tòa đại sứ Mỹ thu xếp di tản thì đã lên máy bay đi rồi. “Các anh về thu xếp lo liệu cho gia đình. Tôi cũng như các anh.”
 
Có anh thắc mắc, “Nhưng ông phụ tá cũng có passport ra phi trường.” Ông Lộc đáp lại, “Tôi cũng như các anh.”
 
Xếp lớn, xếp nhỏ lo tìm đường thoát thân để mặc đàn em ở lại! Trong cái cách thức ra đi này, những người ở lại cảm thức được như một sự phản bội. Trong thâm tâm họ nghĩ như thế. Ngồi trong tù họ cũng nghĩ như thế. Chỉ không tiện nói ra.
 
Nếu có dịp may mắn gặp tướng Bình, tôi sẽ tặng ông một cuốn sách rất đáng đọc. Đó là cuốn “Hồi Chuông tắt lửa”, truyện của Thế Nguyên. Tại sao tôi lại có ý định tặng quyển sách này? Chỉ có cách là tìm đọc nó ắt sẽ hiểu.
 
Còn đối với người bình thường, ưa đọc sách thì xin giới thiệu truyện ngắn của nhà văn Phạm Duy Tốn. truyện “Sống chết mặc bay”. Ngoài kia vỡ đê, dân làng nghe trống thúc dục lo cứu lụt, phần các cụ Chánh, cụ Lý, quan trên vẫn chiếu trên chiếu dưới, rượu vào lời ra, chửi nhau loạn xạ! Một lúc lại có người chạy vào bá cáo đê thế này, đê thế kia! Các cụ vẫn tiếp tục chửi nhau, sống chết mặc bay!
Đó là cái tinh thần xã thôn, cái văn hóa làng xã, cái Le Mal Vietnamien! Nó thiếu hẳn một tấm lòng tử tế. Nó thiếu hẳn một thứ đạo đức vì người hay vì mình.
 
Tôi đã có cơ hội được nghe cũng như tôi đã đọc; tôi đã được cơ hội nói chuyện với một số người trong nhóm A17 và cả một số nhân viên khác trong Phủ Đặc Ủy, tôi chỉ còn biết tôn trọng thái độ của họ cũng như tôn trọng sự chọn lựa của mỗi người. Và nhất là tôn trọng cách ứng xử của họ sau khi ra khỏi tù cải tạo. Chắc hẳn, họ có quyền ngửng mặt lên trước mọi người vì họ đã thực sự lớn lên sau những năm tháng cô đơn cùng cực trong cõi tối tăm của ngục tù cộng sản.
 
Nhưng với tư cách người cầm bút, tôi cần trình bầy một cách đẩy đủ hơn, nhất là những mặt trái của quá khứ.
 
Và nhân tiện đọc cuốn sách này – mặc dù cuốn sách giới hạn vào hoạt động của nhóm A17- ( A17 có nghĩa hoạt động tình báo tại 17 phân khoa đại học Sài Gòn) mà tôi viết bài giới thiệu và khai triển thêm về những hoạt động mật vụ, vốn là một bộ phận trong bất cứ cuộc chiến tranh nào.
 
Nhận xét chung của tôi là các hoạt động mật vụ của Việt Nam Cộng hòa, nhất là thời kỳ Đệ Nhị Cộng Hòa chưa đáng kể. Tôi không đủ tư cách để biết rõ từng cơ quan, từng tổ chức và đó cũng không phải là công việc của tôi.
 
Tôi chỉ nhìn bên ngoài, nhìn các hoạt động của cộng sản thì thấy họ hoành hành xuống đường, biểu tình, phá rối trị an, đốt xe Mỹ, ám sát hết nhân vật nọ, nhân vật kia. Nếu chúng ta có một tổ chức tình báo chặt chẽ như trước đây, làm sao có thể để xảy những cảnh thây người nằm la liệt bị chết, bị thương như vụ Mỹ Cảnh?
 
Cảnh sát bất lực! Các tổ chức an ninh, mật vụ, an ninh quân đội bó tay. Hàng chục vụ đốt xe Mỹ, hàng chục vụ ám sát công khai giữa thanh thiên bạch nhật. Và gần 200 vụ đánh bom trên toàn quốc. Xác người bị giết như giáo sư đại học y khoa nằm phơi thân giữa phố thị không đủ gây một mối thương cảm nào trong dân chúng.
 
Tin trên báo Tự Do sinh viên Ngô Vương Toại bị khủng bố Việt Cộng mưu sát tại Sài Gòn, 19/12/1967. Bố năm trước khi sv Lê Khác Sinh Nhật bị khủng bố VC ám sát nagy tại trưởng Luật, 1971.
Tin trên báo Tự Do: Sinh viên Ngô Vương Toại bị khủng bố Việt Cộng mưu sát tại Sài Gòn, 19/12/1967. Bốn năm sau, sv Lê Khắc Sinh Nhật bị khủng bố VC ám sát ngay tại trưởng Luật năm 1971.
 
Xác sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật nằm đó. Có biểu ngữ, có những lời phản đối. Nhưng nhà cầm quyền như cảnh sát im lặng.
 
Không một lời công bố lên án và hứa sẽ trả thù cho họ.
 
Nguồn: Bạch Diện Thư Sinh, “Mặt trận Đại học”, trang 135
Nguồn: Bạch Diện Thư Sinh, “Mặt trận Đại học”, trang 135
 
Hàng trăm vụ xuống đường biểu tình, đi khơi khơi ngoài phố, hung hăng, la hét, biểu ngữ rợp trời. Cảnh sát chỉ dàn trào và ngăn chặn, kéo hàng rào kẽm gai.
 
Tôi cũng đã từng chứng kiến cảnh đó. Tôi thấy thiếu một cái gì, không giải thích được. Thiếu một tinh thần! Tôi nói thật, thiếu thật đấy. Tôi chưa bao giờ được chính tai nghe tướng Bình, đứng đầu cảnh sát lên tiếng.
 
Trang Sĩ Tấn họp báo, tuyên bố huyênh hoang, dọa nạt thì có. Tôi nghe mà không tin.
 
Đã thế, về mặt lý tưởng, ta thờ ơ, thiếu huấn luyện. Về mặt tinh thần ta hớ hênh và thiếu cảnh giác. Về mặt thực tế, nhiều bộ phận làm việc như công chức, sáng đi tối về. Đó không phải là công tác mật vụ, vì nó đòi hỏi hơn nhiều, một sự hy sinh đôi khi cả gia đình, vợ con. Mật vụ là kín đáo, làm mà tay phải không biết tay trái làm.
 
Dương Văn Hiếu. Một người làm tình báo tiêu biểu! Một người đã bị Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo cho ngồi chơi
 
Mặc dầu Dương Văn Hiếu không phải là chủ điểm của bài viết này. Nhưng ông lại là ngưới làm tình báo có công trạng nhất thời Việt Nam Cộng hòa. Hơn hẳn mọi người – hơn Trần Kim Tuyến một bậc. Câu hỏi là tại sao Dương Văn Hiếu làm được người khác không làm được? Nhắc đến ông cũng là dịp để so sánh Mật vụ miền Trung với các cơ quan tình báo khác như thế nào.
 
Chắc nhắc đến Dương Văn Hiếu, nhiều người sẽ không quên có dư luận về việc thủ tiêu một vài chính khách đối lập thời đệ nhất cộng hòa. Công việc ấy, sẽ xin đề cập đến trong một bài viết khác.
Nhắc đến ông cũng bởi vì ông đã bị Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ‘gửi gấm’ ông một cách đặc biệt sang Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo như một hình thức giam lỏng ông.
 
Về điểm này, mong được tướng Bình giải thích kỹ càng hơn chăng?
 
Nhắc đến Dương Văn Hiếu là nhắc về một quá khứ sự nghiệp làm tình báo của ông và những người cộng sự với ông. Ông được cụ Võ Như Nguyện, một vị chỉ huy cảnh sát miền Trung đặc biệt giới thiệu, rồi sau đó ông trở thành trưởng ty công an Thừa Thiên Huế. Trong thời gian làm trưởng ty công an Thừa Thiên, Huế, ông đã phá vỡ được trong vòng hai năm hệ thống điệp báo cộng sản Khu 5. và từ đó mở rộng hoạt động ra các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Trị, Bình Thuận, Quy Nhơn(15)…
Quan trọng hơn cả ông đã bắt được Mười Hương, ủy viên Trung ương Đảng, chỉ huy mạng lưới tình báo của Hà Nội tại miền Nam. ở Sài Gòn năm 1958. Y không chịu quy thuận, rồi đại tá cộng sản Lê Câu, rồi Phạm Bá Lương công cán ủy viên của Bộ ngoại giao(15)!
 
(10) Mười Hương được Dương Văn Minh qua tướng Nguyễn Hữu Xuân thả ra vào tháng 6, 1964.
(11) Hoàng Hải Vân, “Tướng tình báo chiến lược”, Thanh Niên, số 330, thứ ba 26/11/2002
(12) Bạch Diện Thư Sinh, Ibid, trang 248.
(13) Lâm Lễ Trinh, “Về Nguồn”, trang 339. Theo tôi thì tướng Bình đã rời Sài Gòn sớm hơn thế nhiều. Chỉ đi sau Ông Thiệu thôi.
(14) Xin đoc bài Phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh có nhan đề “Dương Văn Hiếu lên tiếng” đăng trên vietnamexodus, một bài phỏng vấn khong thể bỏ qua. Sau đó, Dương Văn Hiếu cũng nhờ tỉnh trưởng Thừa Thiên ông Nguyễn Đình Cẩn cũng như ông Hồ Đắc Khương, Đại biểu chính phủ miền Trung nhiệt tình giới thiệu với tổng thống Ngô Đình Diệm.
Giữa năm 1957, tổng thống Diệm bổ nhiệm ông làm Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung để làm việc tại Sài Gòn vào đầu năm 1958.
Người ta thường tưởng lầm ông làm việc cho ông Cẩn. Không hẳn vậy. Ông làm việc trực tiếp với ông Nhu, đôi khi ông Diệm gọi. Nhân viên dưới quyền ông không có cả trăm người mà vỏn vẹn có khoảng 10 nhân viên.
Kết quả là ông đã bắt được Vũ Ngọc Nhạ, một cán bộ trà trộn vào bộ Công Chánh. Huỳnh Văn Trọng thì dính dáng vào vụ Gián Điệp Pháp ở nhà hàng Morin Huế. Y trốn thoát qua Cao Mên. Năm 1963 thì mò về được Sài Gòn, do linh mục Trần Ngọc Nhuận bạn của gia đình Nguyễn Văn Thiệu giới thiệu và sau đó Nhạ ‘trở thành cố vấn’.
(15) Lâm Lễ Trinh, “Dương Văn Hiếu lên tiếng”, vietnamexodus.info