khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2019

BỐI CẢNH VÀ DIỄN BIẾN HẢI CHIẾN HOÀNG SA 19/1/1974







Văn Hóa Tập San số 3&4, số đặc biệt nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu







Nợ Cứt - Tác giả Phạm thế Việt



Ngày đó hợp tác xã ra một chiến dịch thu gom phân bắc (cứt người), mỗi gia đình một tháng phải đóng đủ mười cân, nếu không đóng đủ thì bị cắt gạo. Thật là một chiến dịch có một không hai trong xã hội loài người.

Vậy nên, khi chiến dịch ra đời, cái cầu tiêu trở nên vô cùng quan trọng và cấp thiết. Người người, nhà nhà mua xi măng mua gạch về xây cầu tiêu. Cầu tiêu phải làm bằng xi măng thì cứt mới không bị phân huỷ, chứ ỉa xuống đất vài ngày là bọ hung ăn hết, lấy gì mà đóng cho nhà nước. Vậy nên, cái cầu tiêu quan trọng hơn cái nhà. Chuyện ỉa đái lúc này cũng cực kỳ quan trọng, dù ai đó có bị tào tháo rượt ở đâu thì cũng phải nhanh nhanh ba chân bốn cẳng chạy thẳng về cầu tiêu nhà mình mà giải quyết chứ để mất đi một cục là mất đi lon gạo chứ chẳng chơi. Nhiều người đi làm ngoài đồng, ngày trước, khi mắc ỉa thì chạy vô bờ, vô bụi làm đại cho xong, nhưng bây giờ, làm như vậy có mà đói chết. Vậy nên, phải tìm cách, có người làm đại vào bao ni lông, có người cuộn trong lá chuối, có người cẩn thận hơn đi vào trong cái càmèn đựng cơm để mang về cho an toàn mà đổ xuống cầu.
Có nhiều chuyện dở khóc dở cười trong chiến dịch này lắm, ai sống thời đó chắc biết. Khi chiến dịch ra đời thì cũng là lúc không biết bao nhiêu con chó phải chết. Chó chết vì đói, cơm khoai đã không có ăn, đến cục cứt cũng bị nhà nước giành mất thì lấy gì mà sống.

Nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, cố gắng lắm không để thất thoát cục nào, vậy mà đến tháng vẫn không đủ cân nộp, má tôi sai anh em chúng tôi đi tìm đá sỏi bỏ vào cho đủ. Khi mang lên cân người ta kiểm tra và phát hiện nhà tôi gian lận nên lập biên bản và làm kiểm điểm. Họ còn ghi rõ ràng trong biên bản gian lận như thế nào, có bao nhiêu cục cứt và bao nhiêu cục đá sỏi.
Quả đúng không sai, cái đời người nông dân u tối làm sao mà lừa được mấy ông nhà nước, mấy ông tinh vi vô cùng. Kết quả là nhà tôi bị cấm không cho nhận gạo một tháng. Trong một buổi họp người ta đưa tên má tôi ra kiểm điểm trước dân về việc gian lận lấy đá sỏi trộn với cứt để nộp cho nhà nước. Họ không cho má tôi phân bua gì hết.

Nhưng không đành lòng nhìn cảnh con đói, bà đứng dậy thẳng thừng, dứt khoát. Bà nói: Việc tôi làm gian lận tôi chịu trách nhiệm trước toàn thể mọi người, nhưng các người nhìn đi thì cũng phải nhìn lại, nhìn ngược thì cũng phải nhìn xuôi, các người có nhìn vào nhà tôi không, nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, tôi thì suốt ngày đi làm ngoài hợp tác xã, có cục nào tôi đã ỉa ngoài hợp tác xã hết rồi, còn con tôi ở nhà, nó là con nít nó ăn bao nhiêu, ỉa bao nhiêu, nó ỉa ra cục nào chó lủm cục đó thì lấy đâu đủ cứt để mà nộp cho mấy ông. Vậy mà bây giờ mấy ông kiểm điểm tôi, cắt gạo thì lấy gì tôi nuôi con, lấy gì ăn để mà ỉa mà đem cứt nộp cho mấy ông.

Nói gì thì nói, la gì thì la, nhà tôi vẫn bị cắt gạo tháng đó. Không còn gì khốn nạn hơn thế. Nói thiệt, đến bây giờ trong hồ sơ giấy tờ ở kho lưu trữ quốc gia thì nhà tôi vẫn còn một món nợ lớn với nhà nước mà không thể nào trả nổi, đó là nợ cứt.


Trang trong trang ngoài một tờ báo - Tác giả Viên Linh




Nói tới thơ văn trên các báo miền Nam Việt Nam cũng là nói tới các tác giả miền Nam trong làng báo.

1-Và một khi đã nói tới Kiên Giang, tác giả “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím,” thường người ta cũng nói luôn tới Sơn Nam, tác giả “Hương Rừng Cà Mau,” kẻ thơ người văn; vốn thường ở địa vị tương xứng, bên này đối với bên kia.

Không những hai người này sinh hoạt song hành trong làng nhật báo vào thập niên năm mươi sáu mươi, họ còn khởi sự trên những tuần báo miền Nam như Nhân Loại, Phụ Nữ Diễn Đàn, Thẩm Mỹ. Ngoài tiểu thuyết, truyện đồng quê, truyện võ hiệp kỳ tình, báo nào cũng có cả trang thơ truyện.
Lúc ấy tôi đã nghe nói: ngoài Bắc không có như thế, nhưng không thấy nói rõ Hà Nội không thấy như thế, hay Nam Định không thấy như thế, Hải Phòng không thấy như thế, mà tổng quát đem cả ngoài Bắc để so sánh với chỉ một thành phố là Sài Gòn.

Mà Sài Gòn ở đây như tôi biết có những tờ quen thuộc với độc giả bình dân như Sài Gòn Mới của ông bà Phú Đức – Bút Trà, Lẽ Sống của Ngô Công Minh, sâu hơn có Tiếng Dội của Trần Tấn Quốc, Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai, và nhất là hai tờ thế giá kiểu cổ điển “Nam Kỳ” như Thần Chung, Đuốc Nhà Nam…

2-Người viết bài này từng bước vào tòa soạn một tờ báo văn nghệ dòng báo chí Sài Gòn và gặp nhà văn Ngọc Linh ở đấy, khoảng năm 1957. Nếu kể từ chia cắt đất nước 1954 thì chỉ sau hai năm, báo chí Sài Gòn đã thay đổi. Nhiều thì chưa nhiều, nhưng ít ra cũng có khoảng năm tờ báo được nhắc nhở, như Tự Do, Dân Chủ, Ngôn Luận, Cách Mạng Quốc Gia, Văn Nghệ Tiền Phong… Đó là những tờ mới từ khi miền Nam có thêm khoảng 800,000 người di cư từ Bắc vào, trong khi báo cũ trước 1954 vẫn hiện diện…

Sau này giữa thập niên 1960 tới chớm đầu 1970 nhà văn Ngọc Linh lúc ấy đã thân tình với tôi, cười nói: “Tao thấy mày đến tận tờ Nhân Loại gây sự với anh Lợi.” Tôi nói không quen anh Lợi nào hết, nghe nói thế Ngọc Linh gật đầu: “Thì đúng rồi vì hôm đó là lần đầu tiên mày tới tờ Nhân Loại, làm sao quen ảnh, nhưng đó là anh quản lý nắm tiền bạc tờ báo. Ảnh mập ù.”

Tôi gật đầu với tác giả “Đôi Mắt Người Xưa,” cho biết là có những điều bạn nói đúng. Tòa soạn tờ Nhân Loại lúc ấy không có vẻ gì là văn phòng của một cơ quan báo chí, không có tủ sách, không có bàn viết, lại có một số bao tải chất đống bên bờ tường, và một ông quần quật làm việc khuân vác, người mà Ngọc Linh gọi là anh Lợi.

Khoảng sau 1963, không khí trong các tờ báo có khác, còn trước đó tôi từng thấy khi bước vào tòa soạn một tờ báo Nam, hầu như nhiều người ngừng tay làm việc, nhìn lên chờ đợi. Một lần ở báo Công Luận cũng thế, tôi phải nói: “Tôi tới kiếm Duyên Anh.” Dàn ký giả phóng viên của báo này cũng chặt chẽ với việc đối ngoại. Lúc ấy vừa qua tuổi thiếu niên vài năm, tôi không đủ chín chắn để quan sát hay nhận định, nhưng biết là trong đời sống hằng ngày có sự kỳ thị nơi có chung đụng dân cả ba miền Bắc Trung Nam. Phải nói Bắc Trung Nam cả ba kỳ, người ta hay nói kỳ thị Nam Bắc là không chính xác, là bỏ mất một thành phần ở giữa, thành phần nối kết va chạm cả hai đầu.

Tự con người với con người miền này miền kia không có gì nặng nề, song môi trường chung thì có, và rõ ràng có sự chia rẽ, vận động từ chủ trương bên ngoài, còn tự nội tâm bản thể, tôi tin là không.
Tôi có rất nhiều bạn thân người Nam, ngay từ giữa thập niên 1950, vì tôi khởi sự làm báo như một thông tín viên, rồi phóng viên, bị gửi ngay vào sinh hoạt xã hội chung đụng ấy để lấy tin.

Để lấy tin, viết tin, nghĩa là tự mình chứng kiến tham dự sự việc bằng tai mắt của mình, đối đáp bằng lời nói ngôn ngữ của mình, trực tiếp, không bị ai thêm bớt sai lạc. Bạn đầu đời trong nghề báo của tôi ở Sài Gòn 1956 là những người sau này mãi mãi còn là bạn, họ còn lèo lái các tờ báo lớn nữa, đó là những Anh Quân, Trọng Viễn, Ngô Tỵ, Ngô Công Dư… những phóng viên cùng lớp tuổi 17, cũng như tôi. Hơn chục năm sau chúng tôi đều trở thành chủ báo ở miền Nam, và vẫn còn giữ những kỷ niệm đẹp.

3-Trong thế giới nhật báo, trang trong trang ngoài là hai lãnh vực khác biệt, trang ngoài là thời sự chính trị, kinh tế quân sự, trang trong khác hẳn, trang xã hội tình cảm, chuyện gia đình và văn nghệ. Trong cơ cấu tổ chức một tờ nhật báo, không kể chủ nhiệm, chủ bút, người trông coi trang ngoài thường minh nhiên là tổng thư ký, trong khi người trông coi trang trong chỉ là thư ký tòa soạn.

Tờ báo dù có chủ nhiệm, chủ bút thế nào đi nữa, sự phân chia trang trong trang ngoài vẫn rõ rệt. Ký giả trang ngoài khác hẳn ký giả trang trong. Bài cho trang ngoài là bài chạy. Bài cho trang trong là bài nằm. Chạy thì phải vội phải cấp kỳ, nằm thì nhà nhã thư thả. Bài nằm đưa trước cả vài ngày, bài chạy có khi đang viết người thợ sắp chữ đã đứng bên cạnh, nhiều khi viết được 10 hay 15 dòng đã phải lấy cái thước chặn ngang một đoạn, xé ra đoạn đó đưa cho thợ sắp chữ, cốt là để anh ta đi cho khuất.

Cho anh ta một đoạn đem vào sắp chữ thì cả hai bên đều có việc làm, rồi tác giả mới lại viết tiếp. Không thiếu các nhà văn nhà báo miền Nam viết trong tình cảnh ấy. Suy rộng ra, trang trong trang ngoài của một tờ nhật báo khác hẳn nhau, ký giả trang trong ký giả trang ngoài cũng khác hẳn nhau. Một bên xô bồ, còn một bên tà tà.

Độc giả không lưu tâm lắm tới sự khác biệt bài vở trong một tờ báo, thật sự là sự khác biệt rất lớn lao. Ít ai biết rõ những khác biệt ấy như thế nào, vì nếu không ở trong nghề thì cũng không có gì lý thú để đáng biết đến.

Trước 1975, nhật báo phải đưa bản vỗ (bản in thử), thực tế là không phải in bằng máy, mà trải một tờ giấy báo lên khuôn chữ đã sắp xếp xong xuôi, dùng một cái bàn chải lớn quét mực in lên khuôn chữ. Trải một tờ giấy báo lên khuôn chữ đã quét mực, vỗ nhè nhẹ cái bàn chải lên tờ giấy báo, làm sao để chữ nghĩa hình ảnh thấm vào tờ giấy đã ướt mực, rồi bóc tờ giấy (tức tờ báo vì đã có chữ hiện ra rồi), tới khoảng 3 giờ phải đem hai trang báo chính lên Bộ Thông Tin xin kiểm duyệt. Lúc ấy gọi là Bộ Dân Vận, đọc theo giọng Nam là Bộ Dân Giận.

Theo tôi biết, cả thế giới không ở đâu ký giả làm báo in báo như ở Sài Gòn. Chữ thì đúc bằng chì, mỗi con chứ cao 2 cm, ví dụ muốn sắp chữ Việt Nam người thợ sắp chứ phải dùng tay phải nhặt chữ V hoa, chữ i, chữ ệ với dấu ớ (^) và dấu nặng, rồi chữ t như thế là được chữ Việt, rồi kế tiếp một miếng chì trơn làm khoảng cách trước khi nhặt chữ N chữ a và chữ m để sắp liền nhau thành hai chữ Việt Nam.

Tay phải nhón 10 miếng chì này sắp thành chữ Việt Nam vào một cái khuôn gỗ nhỏ cầm bên bàn tay trái. Khuôn gỗ này một khi đầy, tức là ấn công đã sắp được khoảng ba hay bốn câu văn.
Một tờ nhật báo như tờ Tiền Tuyến do tôi làm thư ký tòa soạn chẳng hạn, một ngày ra tám trang, đã cần 30 ấn công làm việc 8 tiếng một thì tới 5 hay 6 giờ chiều, khuôn báo tám trang được sẵn sàng trao cho guồng máy kế tiếp. Tới giai đoạn này thì ký giả khỏi lo nữa, việc in ấn tờ báo thuộc trách nhiệm những người khác.



Phỏng vấn hai tù nhân lương tâm, Trịnh bá Phương và Lê văn Sơn







Cố ca sĩ Quỳnh Giao luận về nhạc của cố nhạc sĩ Nguyễn văn Đông







Giải ảo về Nhân Khẩu Học (Phần 4)







Giải ảo về Nhân Khẩu Học (Phần 3)







Giải ảo về Nhân Khẩu Học (Phần 2)







Giải ảo về Nhân Khẩu Học (Phần 1)







Phạm thanh Nghiên phỏng vấn các chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa tham gia trận hải chiến Hoàng Sa, 19/1/1979



Không phải ai trong số chúng ta cũng biết và đựợc biết sự thật về tất cả những gì thuộc về quá khứ, nhất lại là một giai đoạn, một câu chuyện lịch sử với những biến cố đầy đau thương và oán hận.Trận hải chiến Hoàng Sa là một câu chuyện lịch sử như thế.


Nguồn: Facebook
Nguồn: Facebook
 
Bốn mươi năm trước, khi bẩy mươi tư người lính Hải quân Việt Nam Cộng Hòa “vị quốc vong thân” trên vùng biển Hoàng Sa, tôi và đuơng nhiên những bạn cùng trang lứa còn chưa ra đời.Tại miền Bắc ngày đó, nhiều “cô, cậu” thanh niên đang là bộ đội của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Nhiều người trong số họ hiện giờ đã trở thành những cán bộ đang làm việc,phục vụ cho đảng và nhà nước.Trong số họ, không thể không nói rằng họ không biết hay hoàn toàn không biết về trận hải chiến cũng như sự hy sinh anh dũng của những nguời anh hùng tại Hoàng Sa ruột thịt ngày ấy.
 
Là một người sinh sau biến cố năm 1975, tôi cũng như rất nhiều nguời dân miền Bắc và nhất là những bạn trẻ đã không có cơ hội để biết về trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Hơn thế, tôi cũng đã từng lĩnh án 4 năm tù giam chỉ vì lên tiếng cỗ vũ cho nhân quyền và công khai khẳng định chủ quyền biển đảo của dân tộc. Giống như tất cả những bạn trẻ yêu nước khác, Trường Sa– Hoàng Sa luôn ở trong trái tim tôi. Trong hoàn cảnh của một người tù đang bị quản chế, tôi chỉ có thể huớng về Hoàng Sa bằng cách riêng rất hạn chế của mình: thực hiện một chương trình phỏng vấn để kỷ niệm 40 năm Hải chiến Hoàng Sa.
 
Với mong muốn xóa đi, hoặc ít ra cũng thu hẹp lại những ranh giới, khác biệt từ nhiều thành phần trong quá khứ, tuổi tác và chính kiến để có một cái nhìn trung thực, công bằng, biết tri ân với những nguời đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. Để thấy được rằng, bất cứ một sự khác biệt nào cũng có thể vượt qua với một lý do chung, đó là Lòng Yêu Nước.
 
Bài phỏng vấn này được thực hiện với năm người, như là một phần nói lên tâm tình của những người dân Việt, có những quá khứ khác nhau, về cuộc Hải chiến Hoàng Sa bảo vệ biển đảo của Hải quân VNCH.
 
Vì đây là câu hỏi chung dành cho nhiều người ở những lứa tuổi khác nhau, xin phép được dùng chung từ “bạn” trong cách xưng hô để thuận tiện cho việc đặt câu hỏi.
 
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý độc giả đã quan tâm đến những cuộc phỏng vấn này dù nó không do một “phóng viên” chuyên nghiệp thực hiện. Rất mong quý độc giả tiếp tục đón đọc phần phỏng vấn những vị khách mời tiếp theo.
Khách trả lời phỏng vấn
(Từ trái) - Lê Hưng, Ngô Nhật Đăng, Ngô Thị Hòng Lâm, Lm Đinh Hữu Thoại, Phạm Văn Hải. Nguofn: DCVOnline
(Từ trái) – Lê Hưng, Ngô Nhật Đăng, Ngô Thị Hồng Lâm, Lm Đinh Hữu Thoại, Phạm Văn Hải.
Nguồn: DCVOnline
1
. Lê Hưng (LH): Một bạn trẻ ở Hải Phòng sinh sau năm 1975. Sau khi tốt nghiệp Phổ thông trung học, Hưng tham gia nghĩa vụ quân sự và khi rời quân ngũ, anh tiếp tục theo học đại học.Tuy nhiên, trước đây anh không hề biết về trận Hải chiến Hoàng Sa cách đây 40 năm về trước.
 
2. Ngô Nhật Đăng (NNĐ): Là con trai của nhà thơ Xuân Sách. Ông đã từng phục vụ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam từ năm 1978 đến năm 1982 và tham gia chiến trường biên giới tại Cao Bằng trong cuộc chiến Việt Trung. Ông Ngô Nhật Đăng là thành viên của nhóm No–U Hà Nội và từng nhiều lần xuống đường biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm biển đảo của Việt Nam. Hiện ông đang sống tại Hà Nội và vẫn tiếp tục có những hoạt động cổ vũ cho nhân quyền và nhất là vấn đề toàn vẹn lãnh thổ.
 
3. Ngô Thị Hồng Lâm (NTHL): sinh 1957 tại Hà Nội. Hiện đang sống tại Sài Gòn. Bà Hồng Lâm nguyên là một cán bộ công tác chuyên ngành nghiên cứu lịch sử đảng. Sau khi ngừng công tác, bà dành phần lớn thời gian cho các hoạt động từ thiện và công khai bày tỏ quan điểm ủng hộ cho dân chủ, nhân quyền và đặc biệt là vấn đề toàn vẹn lãnh thổ.
 
4. Lm. Đinh Hữu Thoại – Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn.
 
5. Blogger Phạm Văn Hải – Nha Trang.



PTN: Xin bạn cho biết, bạn biết gì về cuộc hải chiến HS cách đây 40 năm?
LH: Rất tiếc là tôi không hề biết gì về trận hải chiến đó. Vì từ truớc tới nay tôi không thấy báo chí đưa tin hay những người quen của mình nhắc tới. Hoàn toàn không có trong lịch sử mà tôi được học. Có thể thông tin về trận hải chiến 40 năm trước đã hoàn toàn bị che giấu, bưng bít cho đến ngày hôm nay.
 
NNĐ: Ngày đó tôi mới bước sang tuổi 16, cũng như tuyệt đại đa số người dân miền Bắc lúc đó tôi chưa bao giờ được nghe nhắc tới Hoàng Sa – Trường Sa. Tôi được biết đến sự kiện này do nghe tôi và các bạn của ông nhắc tới: “Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gửi thư ra Hà Nội yêu cầu chính phủ VNDCCH lên tiếng về việc Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa”. Chính câu chuyện đó gây ấn tượng mạnh với bản thân tôi.
 
NTHL: Đó là một cuộc xâm lăng – phi pháp, chà đạp lên luật pháp quốc tế – của Trung Quốc cách đây 40 năm nhằm thực hiện ý đồ ‟muốn biến nước ta từ cái tổ Con Đại bàng thành tổ con Chim Chích” như lời của ông cha ta đã dạy.
 
ĐHT: Đó là một cuộc chiến của hải quân Việt Nam Cộng Hòa chống lại sự xâm lược của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Một cuộc chiến anh dũng của hải quân VNCH. Tuy nhiên, vì tương quan lực lượng không cân xứng nên chúng ta bị mất hai nơi này.
 
PVH: Đó là cuộc chiến xảy ra ở nhóm đảo Nguyệt Thiềm thuộc quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19/1/1974. Hải quân VNCH đã thực thi sứ mệnh của người lính trấn giữ biên cương, nổ súng đánh đuổi quân Trung Cộng đang xâm phạm lãnh hải và chiếm giữ các hòn đảo thuộc Hoàng Sa. Cuộc đọ súng giữa 8 chiến hạm (mỗi bên 4 chiếc) diễn ra ngắn ngủi nhưng vô cùng khốc liệt và đẫm máu. Cả 8 chiến hạm đều bị trọng thương, mỗi bên bị chìm 1 chiếc. Phía VNCH hy sinh 74 chiến sĩ, phía TC có khoảng 20 người đền mạng cho tội xâm lăng. Về kết quả giao tranh của 8 chiếc hạm, có thể nói là không phân thắng bại. Tuy nhiên, phía Trung Cộng nhờ có lực lượng tiếp viện đông hơn đã chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa, trong khi 3 chiến hạm còn lại của VNCH phải rút lui.
 
Điều khó hiểu là nhà nước CHXHCN VN hầu như ‟lãng quên” cuộc chiến này trong suốt 39 năm qua, kể cả trong sách giáo khoa môn lịch sử Việt Nam.
PTN: Xin cho biết cảm nghĩ của bạn đối với sự hy sinh của 74 người lính hải quân VNCH?
LH: Tôi rất kính trọng sự hy sinh cao cả của những người đã chiến đấu bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải của dân tộc ta. Tôi là một người theo Đạo Mẫu Việt Nam, tôi tôn thờ những người đã có công giúp dân, đánh đuổi giặc ngoại xâm.
 
NNĐ: Đó là một sự kiện bi tráng, sau này được đọc các tư liệu, các tác phẩm thơ văn tất nhiên là của VNCH tôi càng thấy ngưỡng mộ họ. Có một điều an ủi là sau bao nhiêu năm bị quên lãng các anh đã được “chiêu tuyết” lại, điều đó càng khẳng định: Nhân dân sẽ không bao giờ quên những người con đã đổ máu để giữ gìn đất đai của Tổ Quốc và lịch sử sẽ công bằng.
 
NTHL: Vào thời điểm 19/1/1974, khi ấy mọi thông tin còn bị cộng sản bưng bít rất chặt. Người dân miền Bắc VN hầu như chỉ có một luồng thông tin giáo điểu từ cái gọi là ‟Đài Tiếng nói VN” nên không được biết kịp thời cuộc đánh chiếm đảo Hoàng Sa của người có bộ mặt nạ “anh em” Trung Quốc. Đây là một cuộc chiến không cân sức giữa Hải quân VNCH và bọn Trung Quốc xâm lược. Mặc dù VNCH không giữ được đảo Hoàng Sa nhưng các chiến sĩ đã thể hiện lòng yêu nước vô cùng mãnh liệt trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Đó là những hy sinh đau thương nhưng rất vẻ vang của tất cả các chiến sĩ VNCH và đặc biệt là 74 người lính Hải Quân VNCH. Họ đã ngã xuống trong trận đánh này, để lại trong lòng chúng tôi hình ảnh đẹp và sự ngưỡng mộ những người con của Tồ Quốc Việt Nam. Chúng ta không được phép quên họ.
 
ĐHT: Vô cùng cảm phục!
 
PVH: Đó là sự hy sinh cao quý. Không cái chết nào cao quý hơn là bỏ mình vì Tổ Quốc.
Ngày nào Hoàng Sa chưa trở về với đất mẹ thì mỗi người dân ViệtNam phải tự coi mình vẫn còn mắc nợ sự hy sinh của 74 vị anh hùng bảo vệ Hoàng Sa.
PTN: Suy nghĩ của bạn về những người lính của cả 2 bên chiến tuyến bảo vệ đất nước? Đối với bạn, có sự khác biệt gì không giữa giữa những người lính VNCH như trung tá Ngụy Văn Thà và với những người lính QĐVN (đặc biệt là đồng đội của ông Ngô Nhật Đăng) đã hy sinh ở chiến trường biên giới Việt Trung vào năm 1979 và 1984? 
 
Và ngày xưa những người lính VNCH bị gán với từ “ngụy”, ngày hôm nay bạn nghĩ sao về điều ấy?
LH: Với tôi, những người lính dù là VNCH hay VC đều không không có tội. Là lính, họ chỉ hành động theo lý tưởng và tuân theo mệnh lệnh. Họ là những con người có trái tim yêu nước, yêu dân tộc của mình. Tôi cũng không được biết về cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1984. Cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1979 thì có nghe nói tới. Nhưng tôi nghĩ, sự thật vẫn là sự thật dù có bị bưng bít. Và việc làm ngu ngốc, hèn nhát nhất chính là phủ nhận và bưng bít sự thật.
 
Về việc những người lính VNCH bị gán với từ “ngụy”, tôi xin phép không trả lời dài dòng vì hiểu biết của tôi có hạn. Nhưng những người lính dù là VNCH hay lính QĐND, họ đều đã đổ máu xương, hy sinh để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ tổ quốc. Người thân của họ đã phải chịu quá nhiều mất mát đau thương. Mẹ già mất con, vợ trẻ mất chồng, trẻ thơ mất bố, bạn bè chiến hữu mất đi một người anh em.
 
N: Tôi đã có thời gian là lính (1978–1982) có tham gia chiến trường biên giới tại Cao Bằng trong cuộc chiến Việt Trung. Tôi tin rằng không có sự khác biệt nào giữa những người lính dù dưới thể chế chính trị nào khi chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc, chúng tôi cũng không hề đắn đo và sẵn sàng hy sinh chống bọn cướp nước hồi năm 1979 cũng như các anh hùng giữ đảo Hoàng Sa năm 1974 vậy. Điều đó là chắc chắn.
 
Không riêng gì người lính và cả những người từng phục vụ trong chính quyền VNCH cũng bị gọi là “ngụy” (xin lỗi, tôi coi đây là một từ “mất dạy”) mà cả những người từng tham gia chính quyền trước năm 1954 cũng bị gọi như vậy. Số này ở lại Hà Nội không di cư vào Nam cũng khá đông, họ cũng bị đi tù (gọi là cải tạo) một thời gian. Tôi cũng có một số bạn bè cùng học là con cái của những người này, quan sát họ tôi cũng có những suy nghĩ khác với những điều thường được “giáo dục” trong nhà trường. Tất cả sách giáo khoa và cả các tác phẩm văn học của Việt nam lẫn Liên Xô mà chúng tôi chỉ được phép đọc đều miêu tả những người phía bên kia cực kỳ xấu xa, độc ác, mất hết nhân tính, sẵn sàng mổ bụng ăn gan kẻ thù… Dù không tin hoàn toàn nhưng dù sao vẫn để lại dấu vết trong đầu óc. Cũng may mắn từ bé tôi đã được đọc các cuốn sách trong tủ sách gia đình những cuốn như “Chuông nguyện hồn ai”, “Phía Tây không có gì lạ” v.v. làm cho tôi có những suy nghĩ đúng đắn hơn. Quay về câu hỏi của bạn về những người lính VNCH. Thời chúng tôi cũng thường nghe lén các đài phát thanh Sài Gòn (việc này rất nguy hiểm), các bài hát về chiến tranh về thân phận người lính của phía VNCH cũng gây những xúc động mạnh cho chúng tôi.
 
Tôi còn nhớ, vào cuối năm 1973 (lúc này đã có Hiệp định Paris) một anh bộ đội từ chiến trường ra đến nhà tôi báo tin người cậu ruột của tôi đã chết tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Là con út của bà ngoại, ông chỉ hơn tôi có 6 tuổi nên hai cậu cháu thường quấn quýt với nhau. Đây là cú gõ cửa đầu tiên của chiến tranh thăm viếng nhà tôi; bố tôi cũng thường đi chiến trường trong những thời gian ác liệt (kể cả thời chống Pháp) nhưng ông chỉ đi ngắn chừng 1 năm và lần nào cũng trở về nguyên vẹn. Anh ở lại nhà tôi 2 ngày trước khi về đơn vị và ngủ chung với tôi, tôi được nghe nhiều chuyện về chiến tranh, khi tôi hỏi anh về những người lính “ngụy” anh văng tục: “Hay ho cái đéo gì, anh em trong nhà tàn hại lẫn nhau”. Và tôi mới biết các anh cũng thường hay nghe lén những ca khúc của Trịnh Công Sơn.
 
Sau này có một thời gian tôi sống và làm việc ở Sài Gòn, quen biết nhiều hơn, thậm chí có một người từng là Đại úy cũng nhận tôi là em kết nghĩa (anh đã vượt biên năm 84). Theo tôi, dù đã muộn màng, chúng ta phải đánh giá lại giai đoạn lịch sử đau thương này của đất nước, trả lại danh dự cho những người đã nằm xuống vì đạn bom, những người còn sống bị đày ải vì lao tù, chiến tranh đã lùi xa mà vết thương này vẫn chưa lên da non đó là điều không thể chấp nhận.
 
NTHL: Thực tế thì một điều bất hạnh nhất cho một đất nước là có chiến tranh. Bất hạnh hơn nếu đó lại là một cuộc nội chiến muốn thống trị nhau bằng bạo lực. Với nhận thức của tôi thì cuộc chiến của quân đội hai miền Nam và Bắc Việt Nam là một cuộc nội chiến, “người chiến thắng” chẳng có gì để tự cho mình là cuộc chiến chính nghĩa và vẻ vang. Đây là điều ngộ nhận rất thiếu nhân văn của những người cầm quyền Hà Nội. Cuộc chiến đã tàn 40 năm rồi, đủ độ lùi của thời gian rồi, để “từ nay người biết thương người”. Tuy nhiên, mỗi kỉ niệm 30/4 Ban Tuyên huấn họ vẫn cứ cho phát lại những cuốn băng thời sự cũ “quân ta hừng hực khí thế chiến đấu” nghe sao mà thấy vết thương lòng của dân tộc Việt Nam mãi mãi không thể hàn gắn và câu nói của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt “ngày 30/4 có một triệu người vui thì có một triệu người buồn” vẫn còn nguyên tính thời sự và cuối cùng thì người lính cả 2 bên chiến tuyến họ chỉ là những nạn nhân của cuộc chiến.
 
Vì thế cho nên không thể có sự khác biệt trong đối xử với người lính của hai bên chiến tuyến, không thể giữ mãi sự khác biệt bên trọng bên khinh. Càng không thể dùng từ “ngụy” đối với người lính VNCH. Trung tá Ngụy Văn Thà và đồng đội của ông đã anh dũng chiến đấu bảo vệ Hoàng Sa, đã anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc Việt Nam. Cần vinh danh họ. Cũng như những người lính đã hy sinh ở biên giới Việt–Trung vào năm 1979 họ đều là những anh hùng xứng đáng được Tổ Quốc Việt Nam ghi công và đời đời nhớ ơn họ.
 
Những người lính VNCH bị chính quyền cộng sản gán cho họ từ “ngụy” là một điều ngô nhận của họ. Cần phải có một sự đổi mới về nhận thức với những người ở bên kia chiến tuyến, để xóa bỏ sự hằn thù dân tộc cho vết thương mau liền da liền thịt, tiến đến hòa hợp dân tộc để tăng cường sức mạnh của Việt Nam trong tình hình hiện nay. Bản thân tôi cực lực phản đối sự phân biệt đối xử hoặc xúc phạm với những người ở bên kia chiến tuyến trong đời sống cũng như nghĩa trang nơi họ yên nghỉ.
 
ĐHT: Người Lính nói chung, dù ở chiến tuyến nào cũng đều chiến đấu để bảo vệ chủ quyền và đảm bảo sự yên bình cho người dân.
 
Về chữ ‟ngụy”, đó là sự miệt thị của những người cộng sản, tự cho mình là “bên thắng cuộc” nên đối xử bất công với cả một chế độ. Cần phải có động thái “đính chính” và công khai xin lỗi những người đã bị xúc phạm, cho dù họ còn sống hay đã qua đời.
 
PVH: Theo tôi, không có gì khác biệt. Không riêng gì những người lính VNCH hay người lính QĐNDVN, mà tất cả những người lính dưới các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn… đều có chung một sự hy sinh cao quý: chết vì Tổ Quốc Việt Nam. Chính vì lẽ đó mà sự quên lãng các anh hùng tử sĩ Hoàng Sa suốt 39 năm qua là một sự bất công, nếu không muốn nói là có tội với người đã bỏ mình vì nước.
 
Thời đó (sau 1975), nhiều người dân miền Nam đã không chấp nhận danh xưng này. Cụ thể trong gia đình tôi có người cô (chị của ba tôi) vẫn thường hỏi: – Ngụy là gì? Sao lại gọi là ‟ngụy”? Thật ra chuyện đánh tráo khái niệm và ‟hiếp dâm” ngôn từ của người CS không có gì lạ. Đâu riêng gì từ ‟ngụy”, mà còn rất nhiều từ dùng sai, dùng theo kiểu áp đặt vô lối, chẳng hạn như ‟giải phóng miền Nam”, ‟học tập cải tạo”, ‟phản động”…
 
PTN: Bạn có nghĩ là nên vinh danh những người lính VNCH ở trận chiến HS năm 1974 không? Nếu có, bạn có sẵn sàng tham gia không?
 
LH: Họ xứng đáng được vinh danh, họ xứng đáng được ca ngợi. Nếu không thì máu xương, tuổi trẻ, gia đình mà họ đã phải đánh đổi để dành lấy chủ quyền cho đất nước lẽ nào lại là vô nghĩa hay sao. Chúng ta, thế hệ sau này vô ơn quá.
 
NNĐ: Ồ, đó là việc rất nên làm và tất nhiên tôi sẵn sàng tham gia.
 
NTHL: Việc vinh danh những người lính VNCH đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ Hoàng Sa năm 1974 là việc phải làm để tỏ lòng biết ơn những người con của Tổ Quốc Việt Nam đã hy sinh bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của ông cha ta để lại và qua đó giáo dục nhắc nhở các thế hệ trẻ của Việt Nam lớn lên sau này phải biết ơn những người đã vì bảo vệ biển đảo của Tồ Quốc mà hy sinh. Không được phép vong ân với những chiến sĩ VNCH đã ngã xuống trong trận chiến bảo vệ đảo Hoàng Sa năm 1974 và những chiến sĩ QĐNDVN trong chiên trận bảo vệ biên giới phía Bắc 1979.
 
Việc bạn hỏi chúng tôi có sẵn sàng tham gia không? Xin thưa rằng, tôi vốn xuất thân trong chuyên ngành Nghiên Cứu Lịch Sử, chúng tôi đã cùng các đồng nghiệp của mình cùng các thế hệ học trò tổ chức lễ giỗ tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ của VNCH đã ngã xuống trong trận chiến bảo vệ Hoàng Sa ngày 19/1/1974 hàng năm mà không cần phải xin phép bất cứ một “ông Kẹ” nào.
 
ĐHT: Rất nên và cần phải làm. Luôn sẵn sàng tham gia.
 
Blogger PVH: Tôi nghĩ nên đặt câu hỏi là: Tại sao đến bây giờ họ vẫn chưa được vinh danh? (Trong phạm vi nước CHXHCN VN thôi, còn với người Việt trên khắp thế giới thì họ đã vinh danh 39 năm nay rồi).
PTN: Theo bạn, những tương đồng hay khác biệt gì giữa những người lính ngày xưa hy sinh bảo vệ biển đảo và những công dân VN ngày nay xuống đường thể hiện lòng yêu nước và phản đối TQ xâm lấn HS, TS và Biển Đông?
LH: Theo tôi, những người cách đây 40 năm bảo vệ HS và những người hôm nay xuống đường biểu tình phản đối TQ xâm lấn nước ta, họ rất tương đồng. Họ là những người yêu nước, dám đứng lên bảo vệ đất nước mình dù biết trước hậu quả là có thể sẽ phải hy sinh mất mát nhiều, thậm chí tù đầy hy sinh.
 
Về cá nhân tôi bất kỳ lúc nào đất nước cần tôi sẽ chiến đấu vì tôi cũng đã từng là lính. Và quan trọng hơn tôi là một con dân đất Việt. Tôi chiến đấu cho dân tộc, cho tổ quốc của chúng ta chứ không phải chiến đấu cho bất cứ một chế độ, một chủ thuyết hay một đảng phái nào.
 
NNĐ: Tất nhiên với sự xa cách về thế hệ nên sẽ có những khác biệt, nhưng lòng yêu nước và sự cảnh giác trước “hiểm họa phương Bắc” thì sẽ mãi trường tồn, điều đó ăn vào máu mỗi con dân Việt chân chính.
 
NTHL: Theo tôi sự khác nhau của những người lính VNCH ngày xưa hy sinh bảo vệ biển đảo với những công dân VN ngày nay xuống đường biểu tình phản đối TQ xâm lăng Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông đó là về thời gian. Còn sự tương đồng ở đây chính là lòng tự trọng dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước, mảnh đất thiêng ngàn đời của ông cha ta để lại mà mỗi chúng ta phải có trách nhiệm và ý chí bằng mọi giá phải bảo vệ và gìn giữ. Rất tiếc là khi nhân dân xuống đường phản đối Trung Quốc xâm lược thì lại bị nhà cầm quyển đàn áp bằng bạo lực để làm vừa lòng “ông bạn vàng” Trung Quốc với cái “mặt nạ 4 tốt và 16 chữ vàng”.
 
ĐHT: Tương đồng: bày tỏ lòng yêu nước, chống xâm lược. Khác biệt: người lính thì trực tiếp chiến đấu bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải. Người dân bày tỏ bằng việc biểu tình ôn hòa.
PVH: Điểm tương đồng là cả hai cùng đặt danh dự Tổ Quốc, chủ quyền Quốc Gia lên trên hết. Còn điểm khác biệt là mức độ nguy hiểm của những người lính ngoài mặt trận cao hơn nhiều (có thể hy sinh mạng sống). Còn những người biểu tình thì chỉ ở mức bị bắt bớ, tù đày, sách nhiễu, gây khó công ăn việc làm, việc học…
PTN: 40 năm kể từ ngày 74 chiến sĩ VNCH hy sinh để bảo vệ biển đảo, ngày hôm nay HS vẫn bị chiếm đóng bởi TQ. Theo bạn chúng ta phải cần có những hành động, công việc cụ thể gì mà cá nhân bạn có thể thực hiện hay tham gia góp phần để giành lại HS, TS cho Tổ quốc VN?
LH: Tôi xin được nói rằng, con người của tôi không giống như bọn ngu bị nhồi sọ, tôi không bị mù hay bị điếc mà không biết chế độ này như thế nào. Người dân Việt Nam khổ sở ra sao và đang mong chờ điều gì, nhưng họ chưa làm được có thể họ chưa tìm thấy những người bạn đồng hành. Hoặc là chưa vượt qua được nỗi sợ hãi.
 
NNĐ: Xin quay trở lại, ngoài câu chuyện về bức thư của ông Nguyễn Văn Thiệu, tôi được nghe kể về sự trả lời từ phía Hà Nội: “Ông Phạm Văn Đồng nói ở hành lang: “Có còn là của mình nữa đâu mà đòi”. Lúc đó Hà Nội đã cảm thấy sock trong việc TQ bắt tay với Mỹ (từ năm 72 qua “ngoại giao bóng bàn” và Nixon thăm Bắc Kinh).
 
Thầy dạy tôi cũng là một nhà sử học nói với chúng tôi: “Từ năm 1928, Pháp đã cắm các cột mốc chủ quyền “Indochina” (Đông Dương) lên tất cả các hòn đảo ở Hoàng Sa và một số ở Trường Sa.” Có lần tôi hỏi ông về Hoàng Sa và Trường Sa, ông trả lời:
Hồi năm 1957, Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai có ký một hiệp ước giữa 2 đảng nội dung: Vì hải quân Việt Nam (DCCH) còn yếu nên Hải quân TQ sẽ giúp Bắc Việt bảo vệ Biển Đông (lúc đó trong sự kiểm soát của VNCH) và Vịnh Bắc Bộ. Hai bên sẽ cùng nhau khai thác các nguồn lợi ở đây, nếu có nước thứ ba thì cũng phải có sự đồng ý của cả hai bên. Đổi lại, TQ trả lại VN 2 hòn đảo Cái Chiên và Bạch Long Vỹ mà họ chiếm lại từ Tưởng Giới Thạch (trước đó là người Nhật).
Riêng điều này thì chính xác vì mẹ tôi kể từng ra Cái Chiên và Bạch Long Vỹ làm “Lễ tiếp quản” (hồi đó bà đang là diễn viên của văn công Quân đội). Tất nhiên thông tin này cần phải kiểm chứng, nhất là từ những người chép Sử.
 
Tôi có hỏi ông, ‟Như thế thì làm sao có thể đòi lại được?”
 
Ông trả lời:
Hiệp định ký giữa 2 đảng sẽ trái với luật pháp quốc tế vì nếu hai nước có ký kết một hiệp định tương tự thì phải do chính phủ ký và phải thông qua Quốc hội. Nhưng nếu lôi ra thì lại động chạm đến ông Hồ Chí Minh, đó cũng lại là một điều “kiêng kỵ”. Dù sao đi nữa, việc TQ chiếm Hoàng Sa năm 1974 cũng không thể coi là việc đã rồi, việc này đòi hỏi phải có sức mạnh của cả dân tộc nhất là những người đang ở cương vị lãnh đạo đất nước. Trước hết chúng ta cần phải có quyền được biết tất cả những sự thật liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa. Được công khai lên án những việc làm ngang ngược, càn rỡ của nhà cầm quyền Trung Quốc và tranh thủ sự đồng tình của Quốc tế cũng như tôn trọng các luật biển mà cả hai bên từng cam kết đồng ý.
NTHL: Sự chiếm đóng trái phép đảo Hoàng Sa thể hiện sự ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế về chủ quyền lãnh thổ của từng nước trên trường quốc tế. Vì thế mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam rất bất bình và đã từng diễn ra nhiều cuộc biểu tình ở các thành phố lớn của Việt Nam mà mở đầu là cuộc biểu tình cuối năm 2007, rồi rất nhiều các cuộc khác trong năm 2011 và 2012. Đây là việc làm chính đáng của nhân dân cả nước. Lẽ ra phải được những người cầm quyền ủng hộ và tán thành NHƯ một bước quan trọng trong mở đầu cho kênh ngoại giao và đàm phán. Những cuộc biểu tình của nhân dân cần phải được tôn trọng. Cá nhân tôi hoàn toàn ủng hộ những cuộc biểu tình đầy ý nghĩa lịch sử trong việc giữ nước của nhân dân Việt Nam.
 
ĐHT: Kêu gọi lòng yêu nước và tìm hiểu sự thật nơi người trẻ. Khích lệ và ủng hộ mọi việc bày tỏ yêu sách với TQ về sự xâm chiếm của họ.
 
PVH: Việc trước nhất là khôi phục tinh thần yêu nước, biết ơn người ngã xuống vì Tổ Quốc. Sau đó là làm sao góp phần xây dựng một quốc gia cường thịnh, để lấy lại Hoàng Sa. Vấn đề này có vẻ hơi sâu xa rồi. (Làm sao để xây dựng một quốc gia cường thịnh trong xã hội độc tài tham nhũng, nhân sĩ trí thức bị ra rìa, bọn bất tài kém đức lại chiếm số đông trong bộ máy điều hành đất nước?)
PTN: Được biết anh Ngô Nhật Đăng cũng là một trong số những người đã nhiều lần xuống đường biểu tình và thậm chí bị công an bắt giữ chỉ vì thể hiện lòng yêu nước, phản đối Trung Quốc chiếm biển đảo của Việt Nam. Anh nghĩ sao về hành động này của chính quyền? Và nếu sau này lại có một hoặc nhiều cuộc xuống đường để bày tỏ lòng yêu nước, anh có tiếp tục tham gia không?
NNĐ: Rất tiếc cho họ, đáng lẽ đây là một dịp để chính quyền có thể “mượn” được sức dân không những chỉ trong việc bảo vệ chủ quyền mà còn nhiều vấn đề khác nữa. Họ lo sợ những cái không có thật, chứng tỏ họ là những người lãnh đạo thiếu cái tâm và tầm nhìn xa. Rất tiếc, nếu cứ có những hành xử với người dân như vậy thì điều họ lo sợ có thể trở thành sự thật. Đó là điều mà không ai muốn nhưng sức chịu đựng cũng chỉ có giới hạn. Nếu lại có những cuộc biểu tình nữa để bày tỏ lòng yêu nước thì tôi coi việc phải tham gia như là một nghĩa vụ công dân.
 
PTN: Không giống như gần 40 năm qua, báo chí của đảng luôn né tránh, thậm chí bưng bít về trận hải chiến Hoàng Sa năm 74, hoặc chỉ đưa tin một cách rất hạn chế. Năm nay, báo chí “lề đảng” đã không ngần ngại đưa tin về trận hải chiến này và không ngần ngại gọi 74 người lính hải quân VNCH là “anh hùng”, bạn nghĩ sao về việc này?
 
NNĐ: Đó là điều họ phải làm từ lâu rồi mới phải, nhưng dù sao muộn còn hơn không. Hơn ai hết họ quá hiểu sự o ép khó chịu của tay “láng giềng to xác”. Đây là lúc lựa chọn giữa đất nước và quyền lợi cá nhân, không có kiểu lập lờ nước đôi được.
 
NTHL: Đúng là năm nay là một năm khá đặc biệt. Trước áp lực của quần chúng bắt buộc Tuyên Huấn chỉ thị báo chí phải đưa tin, bài về cuộc chiến giữ đảo Hoàng Sa của Hải quân VNCH mà những thập kỉ trước họ rất kiệm lời và cho là việc “nhạy cảm” hay “chạm húy”. Hay nói cách khác thì đây là một sự hèn nhát của những người cầm quyền. Nhưng họ không thể làm ngơ mãi được vì lương tâm của họ chắc đã hối thúc họ không thể ngậm miệng thêm nữa trước xu hướng tiến lên của một dân tộc ngàn đời không chịu sống quỳ.
PTN: Từ ngàn năm nay, qua bất kỳ thời đại nào, chế độ nào người dân VN ta đều thể hiện lòng yêu nước nồng nàn. Anh nghĩ sao về những bạn trẻ vẫn đang ra sức truyền bá sự thật hiện tại và lịch sử về HS–TS bất chấp tù đầy và bắt bớ, sách nhiễu hay đánh đập?
NNĐ: Tuyệt vời! Tôi không còn biết dùng từ gì hơn để nói về các bạn trẻ đó. Tôi được gặp, được nghe, được nói chuyện với các bạn và đó là niềm hạnh phúc. Không riêng tôi, nhiều người thuộc thế hệ cha chú của tôi cũng vui mừng. Họ bảo: Vẫn có những cô bé, cậu bé như vậy, đất nước này không thể mất.
 
ĐHT: Tôi không có lòng tin vào những bạn suy nghĩ theo kiểu “cộng sản”, vì họ không tôn trọng sự thật, không làm theo sự thật mà chỉ theo “định hướng”, yêu nước theo định hướng. Nếu thật sự yêu nước, yêu tổ quốc mình thì điều đầu tiên phải làm đựợc đó là tôn trọng lịch sử, tôn trọng sự thật. Và phải chứng minh được một điều rằng họ đang làm theo lương tâm, trách nhiệm chứ không phải theo phong trào, theo định hướng hay phụng sự cho một thể chế, một đảng phái hay chủ thuyết nào.
 
PVH: Lòng yêu nước nằm trong đạo đức công dân. Đây là thời buổi đạo đức con người suy đồi nhất trong suốt chiều dài 4000 năm lịch sử. Vì thế lòng yêu nước có thể nói là mong manh nhất.
PTN: Theo bạn, 40 năm sau những thế hệ tương lai sẽ đánh giá và nghĩ gì về thế hệ chúng ta ngày hôm nay khi họ cùng chung nhau tổ chức Kỷ niệm 80 năm hải chiến HS năm 1974?
LH: Theo tôi nghĩ 40 năm sau, có thể mọi chuyện đã thay đổi rất nhiều. Cũng có thể chúng ta đã lấy lại được Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng nếu vậy thì ngày hôm nay và ngay bây giờ, chúng ta phải dũng cảm và quyết tâm đứng lên tranh đấu đòi lại đất mẹ. Nếu không, thế hệ kế tiếp sẽ lên án chúng ta là những kẻ vô ơn, những kẻ hèn nhát, những kẻ không dám nhìn vào sự thật, những kẻ ngu xuẩn bị tẩy não, bị nhồi sọ.
 
Nhân đây, tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn thành kính sâu sắc tới những người lính VNCH, nhất là 74 vị anh hùng đã “vị quốc vong thân”. Xin hãy tha thứ cho tôi, một cho một thế hệ trẻ sinh sau năm 1975 vì đã suốt một thời gian dài, chúng tôi đã không biết về một phần của sự thật lịch sử. Cảm ơn vì đã cho tôi cơ hội nói lên phần nào tâm tư, trăn trở của tôi.
 
NNĐ: Tôi tin rằng lúc đó HSTS đã trở về trong lòng Tổ Quốc, nếu tên những người trong chúng ta được nhắc đến thì đó sẽ là niềm vui sướng vô bờ.
 
ĐHT: Theo tôi, còn quá sớm để nói về điều này. Nhưng tôi tin lúc ấy mọi người dân VN được tự do bày tỏ lòng yêu nước hơn ngày nay. Còn bây giờ, tôi có linh cảm sẽ có những “con mắt hình viên đạn” theo dõi, rình rập những người tổ chức kỷ niệm 40 năm Hải chiến HS năm 1974.
 
PVH: Tôi không mong có ngày kỷ niệm thứ 80 cho sự kiện này. Tuy nhiên nếu định mệnh lịch sử có trớ trêu đi nữa, thì dẫu có 800 năm người dân Việt Nam cũng không được quên nghĩa vụ phải lấy lại đất Tổ, thế hệ này không được phải nhắc lại cho thế hệ sau.
 
 
 

Hoàng Sa đã mất từ năm 1958 qua công hàm của Phạm văn Đồng



Đề xuất hai nước ngồi vào bàn đàm phán trực tiếp là một đề xuất tích cực và mang tính xây dựng. Trung Quốc sẽ đồng ý tham gia đàm phán trực tiếp với Việt Nam, về việc phân định ranh giới hàng hải trong khu vực nằm giữa bờ biển đất liền Việt Nam và quần đảo Tây Sa.

Bản đồ vùng tranh chấp ở biển phía đông Việt Nam. Nguồn: allvoices.com
Bản đồ vùng tranh chấp ở biển phía đông Việt Nam. Nguồn: allvoices.com
 
Một học giả Trung Quốc tiết lộ thêm về Công hàm Phạm Văn Đồng.
Đoan-Trang –
 
Có lẽ rất ít người Việt Nam biết đến chi tiết sau đây, liên quan đến Công hàm Phạm Văn Đồng, mà học giả người Trung Quốc Li Jianwei (Lý Kiến Vĩ) công bố trong bài viết mới đây cho RSIS (Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, trực thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore). Đó là, vào năm 1977, trong một cuộc gặp với chủ tịch Trung Quốc (khi đó là phó thủ tướng) Lý Tiên Niệm, ông Phạm Văn Đồng đã nói: “Trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc chiến đấu chống đế quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.
 
Chi tiết đó giờ đây đã được Li Jianwei mang ra sử dụng trong bài viết của bà, khẳng định Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc! Đây là một lập luận rất nguy hiểm cho việc bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam.
 
 
Trung Quốc, Việt Nam và Hoàng Sa: Đã Đến Lúc Có Lối Thoát?

Li Jianwei

Tóm tắt
 
Vụ đôi co kéo dài giữa Trung Quốc và Việt Nam xoay quanh giàn khoan dầu HYSY 981 gây thiệt hại cho mối quan hệ giữa hai nước. Cần có sự khôn khéo về ngoại giao, sao cho cả hai nước đều có thể điều chỉnh cách làm của họ để đưa tình hình về trạng thái kiểm soát được.
 
Bình luận
 
Bất đồng giữa Trung Quốc và Việt Nam về giàn khoan dầu HYSY 981 kéo dài tới nay đã được hơn 40 ngày (bài viết này đăng ngày 24/6 tại mục Publications của RSIS – ND). Đã đến lúc cả hai bên – vốn kiểm soát thành công những xung đột, mâu thuẫn nhạy cảm trong quá khứ – phải nghiêm túc xem lại những thủ đoạn mà họ sử dụng sau sự cố 981.
 
Suy cho cùng, tranh chấp hiện nay là có hại cho quan hệ song phương, và đó là điều mà chính phủ cả hai nước đều không muốn. Những căng thẳng phát sinh từ tranh chấp cũng đang gây bất ổn cho khu vực Đông Nam Á.
 
Lập trường của Trung Quốc
 
Ngày 8/6/2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra một tuyên bố, cùng với 5 tài liệu đi kèm, để làm rõ lập trường của họ với cộng đồng quốc tế về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của giàn khoan dầu HYSY 981.
 
Vào tháng 5/2014, giàn khoan dầu HYSY 981 của một công ty Trung Quốc đã tiến hành khoan thăm dò trong vùng biển tiếp giáp với quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa). Giai đoạn 1 bắt đầu vào ngày 2/5 và giai đoạn 2 vào ngày 27/5. Hai địa điểm hoạt động nằm ở vị trí 17 hải lý tính từ đảo Trung Kiến (Zhongjian, tên quốc tế là Triton, tức đảo Tri Tôn – ND) thuộc quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa – ND) và tính từ đường cơ sở của lãnh hải của quần đảo Tây Sa, trong khi đó, cách bờ biển đất liền Việt Nam tới xấp xỉ 133-156 hải lý (tức là 239-280 km).
 
Hoạt động của giàn khoan là sự tiếp tục quá trình thăm dò khai thác thường lệ của công ty Trung Quốc và diễn ra hoàn toàn trong vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc.
 
Nói về chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, mở mang, khai thác và thực thi quyền tài phán trên nhóm đảo này. Cho đến thời Bắc Tống (năm 960-1126 Công nguyên), nhà nước Trung Quốc đã xác lập quyền tài phán đối với quần đảo Tây Sa từ trước, và đã đưa hải quân đến tuần tra ở vùng biển này. Năm 1909, đô đốc Li Zhun (Lý Chuẩn), Tư lệnh hải quân Quảng Đông thời nhà Thanh, còn dẫn đầu một đội thanh tra đến quần đảo Tây Sa và tái khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ở đây bằng việc treo cờ và bắn súng chào trên đảo Vĩnh Hưng (Yongxing, tên quốc tế Woody Island, tức là đảo Phú Lâm ).
 
Năm 1911, chính quyền nước Cộng hòa Trung Hoa (Trung Hoa Dân Quốc) ra quyết định đặt quần đảo Tây Sa và vùng biển lân cận vào dưới quyền tài phán của huyện Ya thuộc đảo Hải Nam.Trong suốt thời gian Thế chiến II, Nhật Bản chiếm hữu quần đảo Tây Sa. Sau Thế chiến, theo một loạt văn kiện quốc tế, chính quyền Trung Quốc đã cử các quan chức cao cấp đến quần đảo Tây Sa này trên tàu quân sự, vào tháng 11/1946, để cử hành nghi thức tiếp nhận đảo, và một bia đá đã được dựng ở đây để kỷ niệm ngày Nhật trao trả đảo cho Trung Quốc.
 
Sau ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, quyền tài phán của Trung Quốc vẫn tiếp tục. Năm 1959, chính quyền Trung Quốc thành lập Cơ quan Quản lý các quần đảo Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa (tức là Hoàng Sa, bãi Macclesfield, và Trường Sa).
 
Quần đảo Hoàng Sa (Paracel, Trung Quốc gọi là Xisha [Tây Sa]), bãi Macclesfield (Trung Quốc gọi là Zhongsa [Trung Sa]), quần đảo Trường Sa (Spratly, Trung Quốc gọi là Nansha [Nam Sa]) trên Biển Đông. Nguồn: Wikipedia.org
Quần đảo Hoàng Sa (Paracel, Trung Quốc gọi là Xisha [Tây Sa]), bãi Macclesfield (Trung Quốc gọi là Zhongsa [Trung Sa]), quần đảo Trường Sa (Spratly, Trung Quốc gọi là Nansha [Nam Sa]) trên Biển Đông. Nguồn: Wikipedia.org
 
Công hàm Phạm Văn Đồng
 
Trong các quan điểm về sự cố giàn khoan mới đây, một lần nữa, công hàm năm 1958 của cựu thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cựu thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai lại được đưa ra. Trong công hàm, Thủ tướng Đồng tuyên bố rằng “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ra ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về lãnh hải của Trung Quốc” và “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy”.
 
“Quyết định ấy” là nói đến tuyên bố của Trung Quốc, ra ngày 4/9/1958. Trong tuyên bố này, Trung Quốc thông báo “bề rộng của lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý” và “điều này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm… quần đảo Tây Sa”.
 
Có thể hiểu được là, các đại diện của phía Việt Nam đã cố gắng làm giảm tầm quan trọng của công hàm Phạm Văn Đông và muốn đưa ra một lời giải thích khác về việc tại sao công hàm này không làm lung lay yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa. Tuy nhiên, có một sự thực là trong một cuộc gặp vào năm 1977, chính ông Phạm Văn Đồng đã giải thích cho một người khi đó là Phó Thủ tướng Trung Quốc, ông Lý Tiên Niệm (Li Xiannian); và cái sự thực này quả thật đã làm suy yếu những lập luận hiện nay của Việt Nam nhằm đánh lạc hướng nội dung của công hàm Phạm Văn Đồng. Ấy là bởi vì trong cuộc gặp, ông Đồng có nói: “Nên hiểu các tuyên bố của chúng ta, kể cả tuyên bố trong công hàm của tôi gửi Thủ tướng Chu Ân Lai, như thế nào? Nên hiểu nó trong bối cảnh lịch sử của thời đại”, và “trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc chiến đấu chống đế quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.
 
Rõ ràng là ông Đồng đã công nhận mục đích của tuyên bố của ông về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng lại đòi Trung Quốc hiểu nó trong bối cảnh lịch sử. Lập luận này đi ngược với nguyên tắc quốc tế “estoppels”, theo đó: Trong một tranh chấp cụ thể, tại một thời điểm nào đó, nếu một bên có thỏa thuận/ nhất trí ngầm, hoặc công nhận chủ quyền của một bên khác đối với một vùng lãnh thổ đang tranh chấp, thì sự công nhận hoặc nhất trí đó có hiệu lực pháp lý.
 
Kết quả là, bên nào đã nhất trí hoặc đã công nhận chủ quyền đang tranh cãi, thì sẽ không thể bác bỏ chủ quyền của bên kia đối với vùng lãnh thổ đang tranh cãi, và phải tôn trọng quyền của bên kia. Ngoài ra, việc Phạm Văn Đồng là thủ tướng của nước Việt Nam thống nhất từ ngày thống nhất cho đến tận năm 1986 cũng là một thực tế làm suy yếu lập luận của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền này.
 
Một lưu ý tích cực
 
Trong một bài bình luận gần đây trên RSIS, nhan đề “Hoàng Sa 40 năm qua”, tác giả – học giả Việt Nam, TS. Nguyễn Thị Lan Anh – có đề cập đến một trường hợp phân định thành công biên giới trên biển, đó là hiệp định giữa Trung Quốc và Việt Nam về Vịnh Bắc Bộ, năm 2000. Bà Lan Anh cho rằng các nguyên tắc mà hai nước đã áp dụng trong vụ Vịnh Bắc Bộ cũng có thể được vận dụng cho vùng biển giữa bờ biển đất liền Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa, mà trong đó có đảo Tri Tôn.
 
Chắc chắn là trong vụ phân định Vịnh Bắc Bộ, các nhà đàm phán của cả hai nước đã tuân thủ các nguyên tắc của luật quốc tế, bao gồm cả Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS), là tiến tới một thỏa thuận công bằng mà cả hai bên đều chấp nhận được, có tính đến những yếu tố khác nhau có liên quan. Biên giới trong Vịnh Bắc Bộ là biên giới hàng hải đầu tiên của Trung Quốc, và cũng là biên giới trên biển đầu tiên giữa Trung Quốc và Việt Nam. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho những cuộc đàm phán trong tương lai của họ về các phần khác trên Biển Đông.
 
Trung Quốc thừa nhận rằng vùng biển nằm giữa quần đảo Tây Sa và và bờ biển đất liền Việt Nam hiện chưa được phân định, và cả hai nước đều có quyền đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, căn cứ vào UNCLOS. Tuy nhiên, Trung Quốc giữ quan điểm cho rằng vùng biển xung quanh đảo Tri Tôn không phải là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cho dù áp dụng nguyên tắc nào vào việc phân định biên giới trên biển đi chăng nữa. Khoảng cách và vị trí địa lý chẳng có ý nghĩa gì cả.
 
Đề xuất hai nước ngồi vào bàn đàm phán trực tiếp là một đề xuất tích cực và mang tính xây dựng. Trung Quốc sẽ đồng ý tham gia đàm phán trực tiếp với Việt Nam, về việc phân định ranh giới hàng hải trong khu vực nằm giữa bờ biển đất liền Việt Nam và quần đảo Tây Sa.
 
Nếu đạt được một giải pháp công bằng và hợp lý, thì điều đó sẽ góp phần củng cố và thắt chặt quan hệ giữa hai nước, đồng thời cũng góp phần quan trọng cho hòa bình và ổn định trên Biển Đông.
 
Bà Li Jianwei là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Biển, Viện Quốc gia Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc. Bài này được viết riêng cho RSIS.