khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2015

Đại sứ Ted Osious không thể chụp hình với lá cờ vàng ba sọc đỏ








Giống như một số quí vị người Việt tại Mỹ né không muốn bị chụp hình với lá cờ vàng tại các nơi công cộng. Lý do đưa ra là sẽ bị từ chối visa về VN khi các tòa lãnh sự và đại sứ CSVN trưng ra mấy tấm hình này do VC nằm vùng tại Mỹ lén chụp. Ô hay! cái này lây qua ông đại sứ Mỹ tại VN qua virus có tên là SỢ!

Sáng nay Công An Mạng có máy chủ ở Boston, MA, US, vào "nhát ma" trên máy vi tính của tui.  Đeo theo tui phá phách làm gì. Mời quí vị về Biển Đông cầm súng theo ghe ngư dân VN đánh Tàu Cộng nếu nó ức hiếp họ. 

Mời quí vị chào cờ vàng.





Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung đối đấu với Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn- Tác giả Nguyễn văn Lục



Có thể nói việc tố giác của Nguyễn Trọng Văn và Lữ Phương chỉ là một phiên bản mới, tái diễn lại của những cuộc đấu tố đã một thời trong cải cách ruộng đất. Hay nói đúng hơn, nó gần với phiên bản tố giác như trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm?

Hiện tượng tố giác này, sau 20 năm sống ở miền Nam, tôi chưa hề bao giờ thấy xẩy ra. Tại sao Nguyễn Trọng Văn vốn cũng là một trí thức miền Nam có hạng, trở thành một tên chỉ điểm, đi tố giác đàn anh.

Kẻ đi tố cáo đã tự làm mất bản thân mình trở thành tên đao phủ như trường hợp Tố Hữu tố Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần trong Nhân Văn Giai Phẩm?

Trước những lời tố cáo như thế, Lý Chánh Trung giữ thái độ im lặng. Theo tôi, sự tố giác của Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn không phải là trực tiếp do hai người đó tự làm. Họ được bật đèn xanh và khuyến dụ cho sự tố cáo nhau trong hàng ngũ trí thức thành phần thứ ba ở miền Nam.

Rõ ràng, Lý Chánh Trung cũng chỉ là một con bài mà ngay cả kẻ đi tố giác cũng chỉ là một con bài của chế độ cộng sản.

Đó là sách lược cộng sản chia để trị, dùng người này khống trị người kia, đe dọa và răn đe.

Trước 1975, ông nghênh ngang ngậm tẩu, đầy phong cách trí thức, đầy tự tin, tham dự các cuộc mít tinh biểu tình như một thứ lãnh tụ sinh viên.

Sau 1975, ông học làm thinh.

Sự làm thinh ấy là một sự khôn ngoan cộng sản để sống còn. Thích Trí Quang cũng đã làm như vậy trong suốt hơn 40 năm trời. Và trí thức ngoài miền Bắc của nhiều thế hệ từ Nguyễn Tuân đến những lớp đàn em, đàn em của đàn em cũng đã học được bài học biết làm thinh như vậy để sống còn.

Và để gỡ tội với chế độ, ông đã điều chỉnh cách nhìn, quay 180 độ, đổi giọng. Và đây mới là điều đáng trách, đây mới là điều tủi hổ cho trí thức miền Nam.

Thà chạy mẹ ra nước ngoài cho yên. Thà buông súng đầu hàng.

Hay thà ngồi trong trại Cải Tạo nó bảo trắng thì mình bảo trắng, nó bảo đen thì mình bảo đen.

Ở đây có ai bắt ông chịu nhục phải viết như thế!

Trong một bài phỏng vấn của nhà báo Alain Ruscio, ông nói với một giọng điệu nịnh bợ, dối trá và hèn mạt như sau:

“Đã từ lâu, tôi vẫn mơ một cuộc cách mạng khoan hòa, đúng mực và khoan nhượng… Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đáp đúng nguyện vọng của tôi. Chúng tôi đã làm mọi cách để xã hội mới được hình thành với ít đau đớn bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về điều này là một yếu tố quyết định.”

Ở chỗ bạn bè, chỗ những người quốc gia, ông lý luận rất khéo léo để che đậy, rất thuyết phục. Câu nói sau đây có vẻ can trường lắm:

Tôi chỉ đồng hành với họ (cộng sản), nhưng không là đồng chí.

Một lối nói ngụy biện chỉ những tay biện luận triết học có tay nghề mới nói được như thế.

Bởi vì cũng trong một bài trả lời phỏng vấn Alain Ruscio, ông được coi là dại diện cho thành phần thứ ba, ông lại nói khác. Ông cho rằng:

“Người ta không thể nào là người yêu nước, yêu hòa bình, hòa hợp dân tộc mà lại đồng thời có thể chống lại cộng sản.”

Ở đây lại là một lối ngụy biện cao đồng hóa tình tự yêu nước và yêu Đảng vào làm một. Yêu nước và yêu đảng là một là một luận điệu rẻ tiền ngụy trá của người cộng sản quen dùng!

Điều này rõ ràng ông học được – không phải từ trường đại học Louvain – mà từ trường Đảng, trường dạy ngụy biện gian dối có đẳng cấp nhất mà tôi thường được nghe từ những nhà trí thức đủ loại ở Hà Nội.

Tôi có thể bỏ qua cho ông tất cả những gì ông đã làm, đã nói trước 1975. Nhưng thật là khó cho tôi không thể dung nhượng được những điều ông nói và làm sau 1975.

Nói cho cùng, cả Lý Chánh Trung, cả Nguyễn Trọng Văn tiêu biểu cho một bi kịch của trí thức miền Nam sau 1975. Bi kịch của những kẻ được coi là kẻ dư thừa, không bao giờ được cộng sản tin dùng.
Có lẽ lời nhận định của Nguyễn Văn Trung đáng lẽ trước tiên phải được dành ưu tiên cho Lý Chánh Trung – người bạn đồng hành của ông – mới phải:

Tham gia cách mạng là tham gia vào quá trình tự tiêu diệt chính mình.

Cái độc ác và cái tàn bạo của cộng sản là biết dùng người này trị người kia. Họ tạo ra những hiểu lầm, những mâu thuẫn để những kẻ đáng nhẽ tôn trọng nhau như thầy trò trở thành phường ăn cháo đái bát, phản bội và ám hại nhau bằng đủ thứ tố cáo.

Điều ấy đã xảy ra trong các trại cải tạo, trong trường học, trong tổ chức tôn giáo và ngay cả trong phạm vi một gia đình và trong những các bản tự khai. Con tố cao cha, vợ tố cáo chồng!

Xã hội mất mẹ nó niềm tin vào nhau. Đi dạy học thì cẩn thận từng lời nói, từng cử chỉ kẻo có những đứa học trò được chỉ thị theo dõi thầy. Xã hội làm sao không đảo điên!

Con người tự hạ mình mất nhân cách trở thành ăng ten, trở thành những tên điểm chỉ.

Cho đến bây giờ, khi nhắc lại vụ phê bình của Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn (có thêm một người nữa là ông Nguyễn Văn Bảy) về hai người đàn anh của họ là Nguyễn Văn Trung-Lý Chánh Trung, tôi không còn mang nỗi bực tức như trước đây nữa.

Mà hiểu rằng, điều đó nó phải xảy ra như thế trong một xã hội cộng sản, trong đó người ta nghi ngờ nhau, tố cáo nhau, triệt hạ nhau. Và nếu trong tay có quyền thế họ có thể hạ bệ, cách chức và cả thanh trừng nữa.

Các cuộc thanh toán nội bộ đã xảy ra như chuyện cơm bữa trong đám quyền lực của đảng.

Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn đã làm theo đúng sách vở, và nhiều phần làm theo lệnh Đảng hoặc làm để lấy điểm.

Cứ giả dụ rằng không có 1975 thì mối giao hảo giữa Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương đối với Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung – dù có không ưa nhau đi nữa – đã không bao giờ có cảnh tố thầy trên báo như thế!

Cho nên, tôi sẽ không đề cập đến vấn đề nội dung phê bình đúng sai. Những nạn nhân như ông Lý Chánh Trung thì nay không còn biết gì nữa. Nguyễn Văn Trung thì từ lâu đã gác mọi chuyện và để ngoài tai cả mười năm nay rồi.

Phần Lữ Phương thì cũng đã thấm đòn, thất vọng ngay từ sau 1975 đã không được trọng dụng và ở thế ngồi chơi xơi nước. Sau đó xoay ra ngồi nghiên cứu phê bình chủ nghĩa Mác xít – mà tự nó, chủ nghĩa này đã lỗi thời – nên cũng chẳng ai quan tâm và chẳng gây đuợc tiếng vang gì.

Nguyễn Trọng Văn thì giọng phê bình như đao búa, gần như mạt sát nẩy lửa. Đó cũng là cái tài của anh ta.

Chẳng bao lâu sau, lấy điểm cũng không xong, anh ta bị Đảng cấm cầm bút. Sau đó thì anh ta bị tai biến mạch máu não, phải ngồi xe lăn, và qua đời cách đây được hơn một năm.

Cuộc đời Nguyễn Trọng Văn có cái may là cả hai đời vợ đều tốt nết. Người vợ đầu tôi thấy chị ấy thật là hiền thục. Ít nói, hỏi gì chị chỉ cười nhẹ. Người vợ thứ hai nhanh nhẹn, xinh xắn, hết lòng chăm sóc lo cho Nguyễn Trọng Văn từng miếng cơm.

Còn ngoài ra, con người Nguyễn Trọng Văn, ngay từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường đại học, tôi đã nhận ra tính bá đạo dựa trên những suy luận biện chứng.

Trong một bữa ăn tụ họp anh em bạn bè cũ cùng học, sau 1975, khi tôi có dịp về thăm Việt Nam. Một người bạn đã chỉ thẳng mặt Nguyễn Trọng Văn tố cáo Văn đã làm chỉ điểm hại bạn bè.

Những chuyện nghi ngờ như thế, khó kiểm chứng, khó biết thật là đúng hay sai như chuyện làm ăng ten trong các trại cải tạo. Tôi đã đứng lên can thiệp và yêu cầu anh bạn ngồi xuống để bữa ăn họp mặt được trọn vẹn.

Phần Nguyễn Trọng Văn ngồi im lặng, không phản ứng gì trong suốt bữa ăn.

Cảnh đó, nghĩ lại nay cũng thấy tội nghiệp. Bạn bè nghi kỵ, trở thành thù địch. Đàn em tố cáo, hại đàn anh.

Những điều như thế chỉ có thể xảy ra trong Xã Hội cộng sản.

Tôi còn nhớ, khi Nguyễn Trọng Văn ra tòa xin ly dị với bà vợ người Tàu lai, làm nghề châm cứu.

Nguyễn Trọng Văn đã tố cáo vợ trước tòa đại loại như sau:

“Đây là một người đàn bà bất xứng, phản bội lại tổ quốc vì đã vươt biển. Vậy thưa quý tòa, người đàn bà này có còn xứng đáng có quyền để nuôi giữ đứa con trai của tôi Không?”

Quan tòa nghe vậy thì chột dạ đành quyết định trao đứa con trai cho Nguyễn Trọng Văn. Nghe chuyện này, anh em bạn bè đều ngao ngán.

Riêng Nguyễn Ngọc Lan (linh mục hoàn tục), một cây viết phê bình sắc sảo và khá thâm độc cũng phải lắc đầu: Thật chịu thầy thôi.

Hai bài tham luận của Lữ Phương và Nguyễn Trọng Văn cùng một chủ đề.

Bài của Nguyễn Văn Bảy nhan đề Phê Bình quan điểm Cách Mạng Xã Hội không cộng sản của hai ông Nguyễn Văn Trung trong Nhận Định IV, Nam Sơn, tháng 5-1966 và của Lý Chánh Trung, trong Cách mạng và Đạo Đức, Nam Sơn, tháng 1-1966

Bài của Lữ Phương nhan đề Vài ý kiến về các xu hướng gọi là ‘Cách mạng Xã Hội không cộng sản’, ở miền Nam trước đây.

Bài của Nguyễn Trọng Văn nhan đề Chủ nghĩa Xã hội không cộng sản tại miền Nam Việt Nam – Nội dung và ảnh hưởng. (Tham luận của Nguyễn Trọng Văn, tại Đại học Tổng Hợp, cơ sở hai, TP Hồ Chí Minh).

Lý Chánh Trung và về một môn học mà thầy không muốn dạy và trò không muốn học

Tôi đang ở Munich tại nhà một người bạn vào năm 1988 thì được cho biết là có một bài báo đang gây sôi nổi lắm ở Việt Nam của Lý Chánh Trung. Bài báo được đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật, 13-11-1988.

Thú thật đây là bài báo gây sảng khoái, thích thú nhất trong số cả trăm bài khác của ông Lý Chánh Trung mà tôi đã đọc.

Tôi thầm nghĩ trong bụng, phải như thế mới là Lý Chánh Trung.

Ông viết thật xuất phát từ tim gan, viết gọn ngắn, rất thẳng thừng. Dù ngắn gọn cũng là ấp ủ một hoài bão muốn xóa bỏ môn học chết tiệt đó.

Hơn ai hết, một người thấm nhuần tư tưởng văn học, triết học từ phương Tây làm sao chịu thấu những định đề cứng nhắc của triết học Mác xít?

Một nền giáo dục xứng đáng, nhân bản đôi khi chỉ cần là biết trở về nguồn, trở về nguồn cõi đích thực mà cha ông bao đời đã để lại.

Người ta đã biến một lý thuyết xã hội thành phương châm, thành một thứ luân lý chính trị làm kiểu mẫu đạo đức cho giáo dục Việt Nam, cho con người Việt Nam cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Giáo dục Việt Nam ngày nay nó hỏng từ đó, mục ruỗng từ đó.

Tưởng rằng sau đó nó sẽ được thay đổi!

Cái môn học ấy mà Lý Chánh Trung cho rằng nó làm khổ thầy giáo, làm khổ học trò từ bao nhiêu năm rồi! Không muốn dậy mà cứ phải dậy, không muốn học mà cứ phải học. Học như vẹt. Nay mới có một người dám nói lên sự that.

Bài báo gây chấn động, gây thích thú cho mọi người. Ông Đoàn Thanh Liêm có kể lại rằng, có một nhân sĩ sau khi đọc xong bài này đã nhờ ông Liêm gửi tặng ông Lý Chánh Trung một món tiền(34).
Phần tôi nghĩ rằng câu nói của Lý Chánh Trung sẽ mãi mãi được người đời ghi nhớ chẳng khác gì câu nói của ông Nguyễn Văn Thiệu.

Buồn thay vào ngày 22-12-2004, Bộ giáo dục đào tạo đã đưa ra hai phương án cho các trường đại học áp dụng kỳ thi tốt nghiệp phải có môn học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nói về hành trạng của một người trí thức miền Nam thì từng ấy trang giấy hẳn là vẫn không đủ. Nhưng phải chấp nhận cái giới hạn của chữ nghĩa với chừng ấy sự kiện và bằng cớ.

Khi suy nghĩ về trường hợp Lý Chánh Trung xin thưa rằng như viết về nhiều người khác, tôi không có một liên hệ ân oán gì, ngược lại có nhiều thời gian với những kỷ niệm đẹp, với những giao tình trong mối quan hệ nhiều phía mà không thiếu sự trân trọng tầm mức trí thức của người họ Lý.

Nhưng chính ở chỗ đó, tôi có một cảm thức chua xót là tại sao người cộng sản đã có khả năng khuyến dụ, uốn nắn ngay cả chỉ đạo và bịt mắt một người trí thức như Lý Chánh Trung.

Nay đã có biết bao nhiêu trí thức đã thức tỉnh và bầy tỏ sự hối hận vì đã có thời lầm lỡ.

Riêng Lý Chánh Trung thì nay trí nhớ hầu như xa vắng và ông không có cơ hội để bày tỏ một thái độ trí thức dứt khoát như những người khác.

Có lẽ, đó là điều đáng tiếc nhất cho ông. Một bi kịch làm người trong chế độ cộng sản.

Trước 1975, ông từng viết một bài nhan đề rất sâu sắc ác độc Nghĩ về một xã hội tan rã để ám chỉ đến xã hội miền Nam trước 1975. Tôi nghĩ nếu bài viết ấy dùng để mô tả xã hội hôm nay của chế độ cộng sản thì quả thực là một lời tiên tri của Lý Chánh Trung!

Lý Chánh Trung và Linh mục Nguyễn Huy Lịch- Tác giả Nguyễn văn Lục



Tôi muốn viết thêm về vụ linh mục Nguyễn Huy Lịch và Lý Chánh Trung – hai trí thức công giáo tiêu biểu và hèn cũng tiêu biểu. Họ đã làm những công việc không đáng làm – những công việc của những tay điểm chỉ, đi tịch thu những cơ sở tôn giáo, đi làm nhân chứng cho những vụ công an đàn áp tôn giáo.

Nói đúng chỉ những loại người như họ mới làm được những việc đê tiện ấy!

Linh mục Lịch thuộc một gia đình có bề thế, có tiếng tăm ở Hà Nội; cha của ông là loại trí thức cấp tiến, thiên tả ở Hà Nội. Bố là luật sư, chống Pháp nên ngả theo phía bên kia. Sau khi Lm Lịch thi đỗ tú tài có ngỏ ý xin đi tu và đã bị ông bố tức giận bợp tai vì muốn ông học làm luật sư. Rồi cuối cùng cũng chiều theo con. Lm Lịch sau đó sang Pháp du học.

Năm 1954, bố mẹ Lm Lịch chọn ở lại Hà Nội cùng với một người em gái tên Khanh.

Năm 1955, thay vì về Hà Nội với gia đình, Lm Lịch chọn vào miền Nam, về làm Tuyên úy sinh viên công giáo Câu Lạc Bộ Phục Hưng, số 43 Nguyễn Thông. Nói đến Lm Lịch, một số đông sinh viên công giáo cũng như không công giáo đều có một thái độ trân trọng, kính mến ông vì tinh thần cởi mở và hòa hợp – không phân biệt tôn giáo hay xu hướng chính trị. Có khoảng 500 sinh viên đã từng ở câu lạc bộ này, xin kể một vài người:

“Nguyễn Đức Quý, Hoàng Ngọc Tuệ, Bùi Thế Cần, Ngô Khắc Tỉnh, Đoàn Thanh Liêm, Bửu Sao, Trần Ngọc Báu, Tô Lai Chánh, Đặng Tiến, Cao Huy Thuần, Vĩnh Linh, Pham Đăng Long Cơ, Đỗ Phan Hạnh (Chủ tịch Hội cựu hoc sinh Chu Văn An).”

Nói chung, người ta nhận ra phong cách trí thức nơi cách diễn đạt- dù bằng những ngôn từ dễ hiểu – pha chút khôi hài tế nhị sự tôn trọng cá nhân cũng như sự tôn trọng ý kiến khác biệt, tạo được bầu khí ôn hòa chấp nhận người khác.

Phong cách đạo đức hẳn cũng có.

Tuy nhiên có thể Lm Lịch thiếu một phong cách chính trị nào đó. Tôi rất lấy làm bất nhẫn và dám nói rằng khinh bỉ khi nhìn hình ảnh Lm Nguyễn Huy Lịch đang leo cái thang để lên trần nhà tìm xem chỗ Lm bề trên Trần Đình Thủ – một cụ già 80 tuổi đang ẩn nấp ở trên đó.

Cái hình ảnh ấy không đẹp tý nào cả.

Một ông linh mục trí thức phải đóng vai trò công an đi bắt kẻ gian! Đó có phải là công việc của một người đồng đạo đi tố cáo và bắt một người đồng đạo khác? Nó tố cáo một sự hăng say và sự mất tư cách của một linh mục.

Vai trò linh mục không ở chỗ ấy. Cũng chẳng phải vai trò như đứng về phía kẻ cầm quyền đi bắt một kẻ gian vốn là người anh em của mình.

Hình ảnh linh mục Nguyễn Huy Lịch leo thang lên chỗ trú ẩn của Lm Trần Đình Thủ mà nhiều người không mấy quan tâm. Nhưng nó lại bộc lộ rõ cái bản chất, cái hoạt cảnh trơ trẽn của đám linh mục trí thức tiến bộ thời ấy.

Nó cho người ta thấy rằng có một sự thỏa hiệp đồng lõa giữa những thành phần thiểu số tiến bộ trong công giáo với chính quyền cộng sản.

Trong khi đa số giáo dân, đa số linh mục tu sĩ sống thầm lặng, chịu đựng, giữ phẩm cách và không hùa theo đám giáo sĩ và trí thức tiến bộ mà cái hèn, cái thiển cận, cái óc cơ hội xu thời, cái theo đuôi kẻ mạnh, kẻ chiến thắng mà trước đây nhiều người vẫn coi là kẻ thù nguy hiểm nhất.

Họ trở cờ và họ muối mặt hãnh diện về sự trở cờ ấy. Nói nặng thì họ là những kẻ phản bội.

Thời xưa, chỉ có một Juda. Nay thì có khá nhiều. Juda Lý Chánh Trung, Juda Trương Bá Cần, Juda Huỳnh Công Minh và Juda Nguyễn Huy Lịch, v.v. nhiều đến đếm không xuể.

Họ không khác gì những người đánh trống và thổi kèn cho chế độ mới. Cả hai làm công việc đi tiếp thu Cư xá Câu Lạc Bộ Phục Hưng làm chỗ hoạt động cho chính quyền cộng sản. Họ tiếp tay cho cộng sản!

Chúng ta cùng nhau đọc lại mấy tin tức thời ấy. Tờ Sài Gòn Giả Phóng, số 117 đưa tin:

Đã phá vỡ một ổ phản cách mạng, đội lốt tôn giáo.

Tờ Tin sáng của nhóm Ngô Công Đức- Hồ Ngọc Nhuận Lý Chánh Trung, số 161 thì kết án mạnh bạo hơn đã đưa tin:

“Những bằng cớ tịch thu được của bọn phản cách mạng chứng tỏ bọn họ muốn phá bỏ những thành quả của nhân dân ta trong suốt 100 năm nay.”

Để tỏ ra khách quan, chính quyền mới đã mời ba người đại diện Thiên Chúa giáo trong vụ vây bắt này là các ông: Huỳnh Hữu Đặng, Nguyễn Đình Đầu và Lm Nguyễn Huy Lịch đến chứng kiến vụ vây bắt những người đang cố thủ trong nhà thờ.

Một lần nữa linh mục Nguyễn Huy Lịch và đám Tin Sáng với Ngô Công Đức, Lý Chánh Trung trở thành những kẻ tay sai, đồng lõa.

Riêng vụ án Vinh Sơn thì người ở ngoài giáo hội lại đề cập tới nhiều.

Mới đây nhất, Huy Đức trong Bên Thắng Cuộc có nhắc tóm tắt đến vụ Vinh Sơn như sau:

“Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng ba người khác bị bắt.”

Huy Đức chỉ căn cứ vào tài liệu của chính quyền cộng sản, sự thực sự việc xảy ra như thế nào?
Những người bị bắt trong vụ Vinh Sơn như hai vị linh mục, nhất là Nguyễn Xuân Hùng tự Ali Hùng bị giam chung với cánh nhà văn cũng bị giam tù thời đó.

Vì thế, có đến ba bài ký ức viết về anh lính Ali Hùng như bà Nhã Ca. Nhất là bài viết của Nguyễn Thụy Long, Ký ức về tiếng hát người tử tù. Và Duyên Anh, trong Nhà Tù, chương 18.

Xin ghi lại một trích đoạn của nhà văn Nguyễn Thụy Long, người chứng kiến những giờ phút chót của người tù tử tội Ali Hùng:

“Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên:

Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ: Chúng tôi đã mất Sài Gòn thật rồi.”

Chúng tôi lưu ý đến vụ án này là vì theo một nhân chứng rất quan trong là ông Trần Kim Định, bị án tù chung thân viết lại cho biết:

Trên xe về trại, Ali Hùng nói với tôi:

“Em thật không ngờ ông cha Lịch lại nhẫn tâm làm chứng gian cho em. Từ việc bắn chết tên Rạng đến việc dùng loa phát thanh đều do Dũng làm.  Tòa án đã cố tìm chứng cớ để cho đủ bản án tử hình.”

(Trần Kim Định, Hồi ký của Trung tá Trần Kim Định).

Phần tôi thì tin vào lời trối trăn của Ali Hùng. Linh mục thì không còn nữa.

Phải chăng Lý Chánh Trung hoặc Nguyễn Đình Đầu có thể viết lại chuyện này?

Bộ trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh và con trai Lý Chánh Trung, Lý Chánh Dũng: “Nói láo.”
Đây là chỉ là câu chuyện nhỏ nhắc lại cho vui. Nhắc đến các con ông, tôi nhớ là trong một lúc vui miệng, ông kể câu chuyện có lần ông Lê Đức Anh đến thăm một đơn vị quân đội có nói gì đó đụng chạm đến cá nhân Lý Chánh Trung. Không ngờ con trai Lý Chánh Trung cũng có mặt bữa đó. Lý Chánh Dũng, một đại úy mới về từ chiến trường Cam Pu Chia cũng có mặt.

Muốn hiểu đầu đuôi thì cần phải nhắc lại, khi còn làm đại biểu Quốc Hội, Lý Chánh Trung có đề nghị phải cho báo chí tư nhân hoạt động.

Lời đề nghị đó đi quá xa và làm Nguyễn Văn Linh nổi giận. Bà Ngô Bá Thành – một thành viên của mặt trận cũng hùa theo phê phán Lý Chánh Trung dữ dội.

Tiếp theo, Lý Chánh Trung nguyên là Phó chủ tịch Hội Trí thức yêu nước nên có đồng ý để cho tổ chức một buổi nói chuyện cho nhà văn Dương Thu Hương nói về cuốn tiểu thuyết đang gây tranh cãi hồi đó nhan đề, Những Thiên đường mù.

Rõ ràng là một cuốn sách chống Đảng.

Từ đó, Lý Chánh Trung không được Mặt trận Tổ Quốc đề cử vào danh sách đại biểu Quốc Hội nữa.
Dư luận còn cho rằng, lợi dụng tình hình ở Đông Âu sụp đổ, một số thành phần thuộc lực lượng thứ ba trước đây nay đang có mưu đồ diễn tiến Hòa Bình.

Lê Đức Anh lợi dụng dịp nảy đưa ra trường họp Lý Chánh Trung trong bài nói chuyện của ông ta để mọi cấp cảnh giác.

Nhưng chẳng may có mặt con trai của ông Lý Chánh Trung ngồi đó. Dũng tức khí vì có kẻ đụng chạm đến bố mình – bất kể kẻ đó là ai – anh tức khí đứng lên, đập bàn hét lớn, “Nói láo”, rồi vội rời khỏi Hội trường. Sau này, Lý Chánh Dũng ra khỏi quân đội và làm Tổng Biên Tập tờ Đại Đoàn kết.
Câu chuyện rồi cũng xong, được Lê Đức Anh bỏ qua.

Giả dụ nếu không phải là con trai Lý Chánh Trung thì số phận viên đại úy quèn này sẽ ra sao?
Kể xong câu chuyện, Lý Chánh Trung cười một cách rất con người – một Lý Chánh Trung rất là Lý Chánh Trung.

Tôi cũng cười nói, “Như thế là nó giống bố nó.”

Tôi cảm nhận và bắt gặp lại cái cười nửa miệng hơn 40 năm về trước của một trí thức miền Nam – với cá tính miền Nam – với phong cách trí thứ áo vét, măng tô – với cái miệng ngậm ống tẩu – đôi chút cao ngạo cùng nhau dạo buổi tối trên một con dốc của Viện Đại Học Đà Lạt.

Tôi ngậm ngùi đã có một thời, cuộc sống của người miền Nam có thể sống an bình hạnh phúc như thế. Con người trí thức xưa ấy và con người ngày hôm nay ngồi trước mặt tôi, hình như không phải một người.

Sau vài giây phút thoải mái, Lý Chánh Trung trở lại con người thay vì khoác măng tô mang từ Bỉ về, ông khoác lại chiếc áo Mác xít và nói:

“Này nói chơi thôi nhé, đừng kể cho ai nghe và về bên ấy nhớ đừng viết gì cả.”

Lý Chánh Trung bỏ đạo Chúa theo Mác

Nhắc lại vấn đề này cho thấy cộng sản có thể dùng áp lực chi phối con người ngay cả trong lãnh vực niềm tin tôn giáo. Một người công giáo bỏ đạo là điều khó lắm, không dễ. Nhất là bỏ đạo vì áp lực của Đảng. Điều đáng trách nhất nơi ông – mà điều gì khác cũng có thể xí xóa được – là khi cộng sản vào một thời gian, trước mặt nhiều người, ông tuyên bố công khai kể từ nay, ông bỏ đạo công giáo.
Việc công khai hóa ấy ông muốn chứng tỏ cho mọi người biết mà không cần dấu diếm.

Việc công bố này làm bỉ mặt nhiều người. Nhất là những người công giáo. Một người công giáo bình thường không ai làm như vậy. Có ai bắt ông phải làm một điều như vậy? Bỏ đạo thì có người đã từng làm, nhưng công bố bỏ đạo là một điều ít ai trên đời này có thể làm được.

Và được biết, chỉ đến khi con trai ông bị nạn. Ông than thở, cầu cứu khắp nơi và cuối cùng chẳng còn biết trông cậy vào ai, ông mới hồi tâm trở lại đạo.

Tuy nhiên, theo tôi được biết thì hiện nay kể như cả gia đình ông đều ra khỏi công giáo. Tôi cũng được biết rằng ảnh hưởng gia đình bên vợ ông trong những quyết định của ông theo cộng sản là điều không nhỏ.

Khi con trai ông qua đời, không thấy đả động gì đến các nghi thức công giáo cả?

Thôi thì cũng đành
.
Sau 1975, ông đã sống khuôn mình vào môi trường CNXH vốn không dễ gì. Bởi vì, con người Xã Hội chủ nghĩa, ngoài sức khỏe thể xác và tinh thần còn có một thứ sức khỏe không thiếu được: Đó là sức khỏe chính trị. Theo sự nhận xét của riêng cá nhân tôi, ông Lý Chánh Trung là người bằng mọi giá bảo vệ các sức khỏe chính trị này. Tất cả những cánh bạn bè trí thức cũ hầu như đều tìm cách lánh xa ông và chính ông cũng tìm cách lánh xa họ để giữ cho trọn vẹn cái sức khỏe chính trị ấy.

Tôi cũng nhận ra được những nỗi khổ của người trí thức biết câm lặng, biết nói điều gì được phép nói.

Mất cái sức khỏe này thì mất tất cả nên ai cũng phải lo giữ gìn.

Cho nên, người ta không lấy làm lạ gì khi cấp lãnh đạo Đảng vào thăm thành phố Saigòn năm 1975 đã chỉ đưa ra một nhận xét duy nhất cho một người – một nhận xét xem ra quá khổ về Lý Chánh Trung: Lý Chánh Trung là một người cộng sản không có thẻ đảng.

Lời khen này có thể là một lời khen thật – vì ông được đề nghị cho vô Quốc Hội mà cũng có thể hàm ý anh vừa vừa thôi nhé, đủ dose rồi, như một lời đe dọa bóng gió.

Lời nói bóng gió ấy chắc có kẻ sợ giữ mình.

Tôi đã không được biết phản ứng và câu trả lời của Lý Chánh Trung ra sao. Chắc là im lặng.

Bích Vân hát Đêm Màu Hồng, Phạm Đình Chương phổ thơ Thanh Tâm Tuyền







Anh Đi Chiến Dịch - Hợp ca Thăng Long (hải ngọai)







Camille Huyền hát Những Giọt Lệ, Walther Giger phổ thơ Hàn Mặc Tử



Những Giọt Lê,
 
Hàn Mặc Tử
 
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?
 
Họ đã xa rồi khôn níu lại,
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa...
Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
 
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?






Thân tặng bài hát này cho một người "VÔ DANH" (kẻ mà các bạn K1 cứ hỏi nhau trên đầu môi chót lưởi: bây giờ làm gì, ở đâu, và sống ra làm sao? Biết rồi, khổ lắm hỏi mãi!)







Thanh Thúy hát Ngày Em Hai Mươi Tuổi, nhạc Phạm Duy







Kim Tước hát Vào Mưa, nhạc Từ Công Phụng







Hiền Thục hát Môi Hồng Đào, nhạc Trịnh Công Sơn







Tặng các bạn hiền KHKTM K1 đã và đang toan về già: D'Après L'Éternelle (Bài Ca Muôn Thưở), thơ Rosemonde Gérard







Yves Montand hát À Paris







Hoàng ngọc Tuấn hát Nhịp Ba phổ thơ Thanh Tâm Tuyền







Sacramento City Hall: Hủy bỏ đón tiếp CSVN vì áp lực biểu tình của CĐNV







NHÂN QUYỀN CHO VIỆT NAM: Đánh giá về những phát biểu của ông Đại sứ Ted Osius







Lúc đó HẢI nơi mô?







PHÓNG SỰ TỪ VIỆT NAM: Tiếp tục chương trình "Tri ân anh - Người thương phế binh VNCH"







Xô xát dữ dội tại biên giới Việt - Trung . Vụ việc xảy ra vào năm 2004 tại bãi nổi Tục Lãm, thuộc xã Hải Hà, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.







Giờ này THANH ở đâu?




                                            


Khoai Mì, thời oanh liệt nay còn đâu




Tổ quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá
 Từ giải phóng vô đây ta ăn độn dài dài
 Từ giải phóng vô đây ta ăn độn nhiều hơn…



Long Môn hiệp khách - Tác Giả Nguyễn Từ Hanh



Dốc Nguyệt Trào Sông



Nó phất phơ trước gió như một cành phan, ở giữa đám cọc cắm đầu người dựng quanh pháp trường. Nó là một chéo lụa, được cài lên ngọn cờ ngay từ chiều mà không ai để ý đến.
 
Mãi cho đến lúc tên giặc Tàu tò mò bước lại giật xuống, giận dữ la mắng đám đao phủ, người ta mới rõ là đã có một đầu người bị đánh cắp và ai đó dựng lại cọc tre với tấm lụa vàng. Những người  hiếu kỳ chung quanh còn đọc được hàng chữ viết bằng máu nâu sậm:
 
„Giờ Tý đêm nay, Phan Liêu sẽ đền tội“.
 
Phan Liêu là tên quan Tri Phủ mới được Tổng Binh Trương Phụ đưa lên cai quản tỉnh Nghệ An chừng một tuần. Mảnh lụa được quân Minh lập tức cưỡi ngựa đưa vào thành trình Trương Đại Tướng đang dự tiệc trong dinh Tri Phủ. Dân chúng hiếu kỳ vây quanh pháp trường lại bị quân Minh giận dữ lấy roi vụt túi bụi khi đám binh Minh triều rẽ ngựa chạy về dinh. Chiều xuống trên bãi đất trống ngoài thành, trải mầu tím thẫm trên những xác chết cụt đầu, nằm co quắp trên đài cao giữa pháp trường. Gió rít thê lương qua những cọc tre, nghe như tiếng người khóc. Đứng giữa đám đông, người ta cũng muốn rùng mình.
 
Đêm đó, thành Nghệ An có hội.
 
Từ ngoài thành, dọc theo bờ biển, đám quân binh giặc Tàu đổ vào thành từ chiều, đi nghênh ngang lũ lượt khắp nơi, vẻ tự đắc khả ố. Dân chúng được lệnh mở cửa ăn mừng, hàng quán phải chuẩn bị chào đón tướng sĩ Thiên triều ngay từ giờ Mùi. Những trụ pháo bông được dựng vội trước đền Thành Hoàng và Văn Miếu để thêm phần long trọng cho một ngày hội; nhưng cũng chỉ đủ soi một góc thành, chưa tạo được vẻ vui cho Nghệ An. Chung quanh thành, mùi tử khí nồng nặc từ một tuần nay vẫn chưa bạt hết. Những đám cháy tắt vội ở khu ngoại thành còn đưa khói khét lẹt thịt người về đến trước dinh quan Tri Phủ.
 
Dù được lệnh Phan Tri Phủ phải mở cửa ăn mừng, dân trong thành vẫn không dấu được vẻ miễn cưỡng lãnh đạm. Chỉ có đám con buôn vô lại mới có vẻ mừng rỡ. Hàng họ ế ẩm từ một tuần, nay mới có dịp làm ăn. Binh lính Thiên triều khoác tay nhau vào thành ăn mừng , đảo mắt tìm phụ nữ chọc ghẹo và cười nói hô hố, khạc nhổ như trong chợ. Chúng uống rượu khá mạnh, tay áo trấn thủ tên nào cũng quệt đẫm rượu. Những quán bán rượu mở ra múc không kịp tay. Ngoài khu ăn uống này, Nghệ An vẫn là thành phố chết, tiêu điều và thê lương.
 
Nhưng, muốn thấy hết vẻ ghê rợn của Nghệ An từ khi bị chiếm đóng, người ta phải ra ngoài bờ thành, nơi bãi đất trống cửa Nam được dựng thành pháp trường.
 
Từng bó đuốc lớn quấn bạch bố tẩm nhựa tùng đã được đốt cháy trên những trụ cao bao vây khu đất Ở giữa, một đài được tô sơ bằng tre và đất sét. Chung quanh đài, dưới lá đại kỳ mang phù hiệu của Trương Tổng Binh, người ta thấy tua tủa một hàng cột tre cao nghệu. Đầu cột cắm đầu người vừa bị chặt. Từ hai ngày nay, đao phủ thủ của giặc Tàu làm việc hầu như liền tay. Các ổ kháng cự của Trùng Quang Đế dường như bị bao vây và tiêu diệt hết. Những người bị điệu về thành đã bị tra tấn tàn bạo đến lết chân không nổi, trước khi bị đem ra bêu đầu trước dân chúng thành Nghệ An để làm gương.
 
Dân trong thành không thích xem hội, mà bảo nhau kéo ra pháp trường. Họ im lặng vây quanh khu đất trống bập bùng ánh lửa dưới nắng chiều, và nghiến răng nhình từng người gục ngã. Mỗi đợt giặc Tàu kéo tử tội về là lại thấy chiêng trống om xòm, đám người hiếu kỳdạt sang hai bên, kiễng chân nhìn xem có ai quen biết trong số nghĩa quân bị xử chém hay không. Ngoài Nghệ Anh, không hiểu tình hình Thanh Hóa và Đông Quan ra sao... Người dân hỏi nhau qua ánh mắt, qua sự căm thù tuyệt vọng. Không rõ Hóa Châu đã mất hay chưa. Trong đám tử tội, không thiếu gì những người trẻ tuổi, cả đàn bà con gái. Tiếng người la hét, tiếng cầu kinh và ráng chiều đổ xuống in bờ lũy thành từng mãnh đen trên đài xủ trảm lấp loáng gươm đao, khiến mỗi người đều nghĩ đến một cảnh địa ngục. Mỗi hồi trống vang lên là lại có tiếng người thầm thì cầu kinh ở bên dưới. Đám giặc ra roi hăm dọa và lớn tiếng đọc thông báo thị oai đã tạo ra một cảnh hỗn độn không kém gì tiếng người cười đùa uống rượu ở trong thành.
 
Trong cảnh hỗn loạn đó, khó ai biết người nào đã táo gan nhẩy lên lấy cắp sọ người và thay vào đó một vuông lụa với mấy câu cảnh cáo Phan Tri Phủ. Cũng phải là tay đởm lược hơn người mới dám chọc giận quân binh Thiên triều như vậy. Phan Tri Phủ đang đãi khách trong dinh, đến con kiến cũng không lọt vào được, ăn gan hùm mật gấu hay sao mà dám vào Phủ làm việc thích khách?
*
Phan Tri Phủ là người có học, nổi danh hay chữ từ kỳ thi Hương năm Dậu, khi vào bộ Lễ tập sự để năm sau thi Hội, hắn đã nổi danh Đông Quan là tay giỏi thơ phú và thư pháp. Năm Hợi, khi hắn đỗ Thái Học Sinh, quan Thái Phó tại Nghệ An đã mở tiệc ăn mừng liền ba ngày, dân thành Nghệ vẫn còn nhớ. Có ngờ đâu, một tay danh sĩ lại thành người phải quốc để đêm nay bị dọa đền tội.
 
Quan Tri Phủ tiễn khách ra về rồi mới tần ngần ngắm nghía bảy mâm quà tặng, tận khuya mới vào thay áo. Bên ngoài, lính canh đi lại in bóng bên song. Ngay trước đại sảnh và ở hàng hiên vây quanh công đường, đám vệ sĩ người Minh gác dáo đứng canh như tượng đá. Chúng to lớn khỏe mạnh, võ nghệ hơn người nên đượcTrương Tổng Binh đặc cách cho ở lại bảo vệ dinh Tri Phủ. Nơi đây, có tài thánh mới lọt vào được. Phan Tri Phủ gật gù nghĩ vậy, rồi ra dấu cho đám quân hầu bưng bảy mâm vàng vào thư phòng phía trong. Hắn liếc chào đám vệ sĩ người Minh rồi vào theo.
 
Trên bàn thờ, khói nhang đã nguội lạnh từ mấy hôm nay. Bức họa truyền thần vẽ chân dung quan Thái Phó Phan Quý Hữu ẩn hiện trên góc tối, nghiêm nghị nhìn xuống, thoáng vẻ trách móc. Hai ngọn đèn bạch lạp trên kỷ chỉ đủ soi mấy mâm vàng phủ nhiễu đỏ chói. Tri Phủ Nghệ An xoay mình để khỏi nhìn thấy  ảnh cha trên bàn thờ và mân mê một hộp gỗ dài, bao giấy hoàng điều, trên có triện son của Đại Tướng Mã Kỳ. Cầm hộp thấy nhẹ, hắn thoáng chau mày thất vọng. Được Đại Tướng Mã Kỳ gửi quà là điều vinh dự. Mã Đại Tướng còn trấn ngoài Thanh Hóa mà lưu tâm đến quan Tri Phủ tận Nghệ An làm sao mà không vui. Nhưng, từ Tổng Binh Trương Phụ đến các tướng sĩ Thiên triều khác, ai ai cũng đưa vàng, không rõ Mã Đại Tướng gửi quà gì mà chỉ có một hộp gỗ này thôi. Đưa lên mũi ngửi, thoảng mùi trầm.
 
Là người kín đáo điềm đạm, Phan Tri Phủ lặng lẽ đặt hộp quà xuống. Đoán là ngọc quý. Rồi qua phòng bên thay áo, uống sâm. Hắn hơi tiếc rẽ là không biết lưu lại mấy con hát cho đêm nay. Để chúng khoác áo theo hầu đám tướng sĩ Thiên triều hết cả, thật hoài của. Nhớ vẻ háu đói của đám Trương Phụ, hắn bật cười ái ngại cho đám ca nhi mảnh khảnh này...
*
Năm đó là năm Quý Tỵ. Nhà Hồ đã đổ từ sáu năm về trước. Việc kháng cự của dân Hoàng Việt đã như ngọn đèn trước gió. Sau khi Giản Định Đế bị diệt, Trùng Quang Đế đã rút binh đội chọn Nghệ An là đất cố thủ, những mong ở sự trợ sức của quan Thái Phó Phan Quý Hữu, là thân phụ của danh sĩ Phan Liêu. Sau năm Bính Dần, tình hình thêm nguy ngập. Phan Thái Phó là người biết rõ nội tình nghĩa quân của Trùng Quang Đế, nên hai cha con đều thuyết phục Trùng Quang Đế xin hàng. Ngự sử Nguyễn Biểu không chịu. Ngay giữa triều, nơi dựng dinh Tri Phủ, Nguyễn Biểu đã luận việc hòa hay chiến rất minh bạch. Cho đến khi được Trùng Quang phái đi gặp Trương Phụ, ông vẫn khảng khái chủ trương phải đánh, và vạch kế lui về núi Lam Thành xây trại làm thế ỷ dốc. Trùng Quang không nghe, ý cũng muốn hòa, xem Trương Phụ có chịu hay không.
 
Tháng Năm, năm Tý, Tổng Binh Trương Phụ kéo quân xuống Nghệ An, đánh bật cứ điểm cuối cùng của Trùng Quang. Quan Thái Phó đã biết oai Thiên triều, xin đầu hàng tức khắc.
 
Nhưng đêm đó, khi nghe dân chúng trong thành la khóc dưới vó ngựa thô bạo của quân Minh, và khi quỳ nghe Trương Tổng Binh thóa mạ kể tội Nguyễn Biểu, so sánh khí tiết của Nguyễn Đại Tướng với tính « hiếu hòa biết sợ oai trời » của mình, quan Thái Phó Phan Quý Hữu đã thổ từng búng máu.
Hai ngày sau thì chết. Trương Phụ nghĩ lại, cũng biết thưởng công cho người con của Ngài. Nhờ vậy, Phan Liêu đa được cất lên làm Tri Phủ Nghệ An. Sau ba ngày, viện cớ giữ tang cha cho phải lễ, Phan Tri Phủ đã mở tiệc khao quân Thiên triều và cũng để ăn mừng danh vọng vừa tới…
 
Những mâm vàng rực rỡ đang được lính hầu bưng từ đại sảnh vào thư phòng đã được binh lính bên trại Trương Tổng Binh đưa qua từ chiều. Trong suốt buổi tiệc, kéo dài từ đầu giờ Dậu đến khi trăng tháng năm chênh chếch ngoài hiên, quan Tri Phủ đem hết tài văn chương thêu dệt chiến công hiển hách của Trương Tổng Binh và quân binh long hổ của Thiên triều đã sớm bình định cõi Nghệ, để thẳng đường xuống tới Hóa Châu tiêu diệt luôn đám tàn quân của Quý Khoách. Mỗi đợt lính bên trại lết vào báo tin vui, Trương Tổng Binh lại gật gù trên ghế rồng và quan Tri Phủ lại mau mắn hô lũ con hát rót rượu mừng hồng phúc Minh Thành Tổ.
 
Cho đến khi quân hầu Trương Tổng Binh lết vào quỳ dâng vuông lụa, mọi người đều đã quên khuấy pháp trường và những nghĩa quân đang bị chém ngoài kia. Vuông lụa được truyền từ tay Tổng Binh qua quan Tri Phủ với cái cười mỉa mai khiêu khích. Là tay kín đáo, Phan Tri Phủ đón nhận với tất cả bình tĩnh. Kinh nghiệm mấy ngày qua cho thấy Trương Phụ không ưa kẻ hèn yếu. Quan Tri Phủ cũng không thể tỏ vẻ sợ sệt trước mặt tướng sĩ Thiên triều được. Tùy theo phản ứng của mình, hắn biết sẽ giữ được ghế tri phủ lâu hay chóng.
 
Vì vậ, Trương Tổng Binh rất hài lòng khi thấy Phan Tri Phủ lặng lẽ cầm chéo lụa chùi vết rượu trên kỷ và vứt xuống đất:
 
-        Chúng chưa biết sợ oai trời. Vài hôm nữa, Nghệ An này sẽ vững như bàn thạch.
 
Câu nói của Phan Tri Phủ được đám hổ tướng của Trương ồn ào tán đồng bằng những tiếng mừng rượu. Đám ca kỷ lại thêm một phen rót rượu liền tay. Tổng Binh Trương Phụ gật gù đắc ý, bớt hẳn vẻ khiêu khích, khó chịu:
 
- Như vậy tốt. Dù sao, ta cũng cắt cho ông mấy tên vệ sĩ. Không muốn ông mang cái nhục khăn yếm, phải lẩn trốn như đàn bà, làm giảm oai khí Thiên triều; nhưng ta cũng không thể để lũ giặc kia phạm tới tay chân của ta được.
 
Phan Tri Phủ cúi đầu lạy tạ và tỏ lòng cảm kích bằng cách trình bày dự định trước đây đã được Nguyễn Biểu tâu lên Trùng Quang Trần Quý Khoách, đó là mở rộng thành Nghệ đến núi Lam làm hậu cứ để Bắc trợ Thanh Hóa, Nam đánh Hóa Châu. Trương Tổng Binh chăm chú nghe, mắt sáng đắc ý.
 
Có lẽ vì vui chén, và luôn miệng dâng kế lên Tổng Binh, Phan Tri Phủ không còn nhớ đến vuông lụa nằm dưới đất, được viết bằng máu, nay đã thôi màu rượu. Cho đến khi tiễn tướng sĩ Thiên triều ra tận cổng và ân cần dặn dò đám kiệu phu đưa bầy con hát về phục dịch quan tướng nhà Minh, Phan Tri Phủ cũng quên luôn lời hăm dọa trên vuông lụa. Chung quanh, lính hầu và quân canh đi lại nườm nượp khiến hắn nhớ lại cách đây không lâu, đám lính hầu này đã phải canh chừng cho Trùng Quang Đế. Phan Tri Phủ đang thành một vua con ở thành Nghệ. Mùi thuốc súng của pháo bông quện với gió biển từ ngoài thổi vào vẫn không át được mùi tử khí, khiến hắn rảo bước đi vào. Đám vệ sĩ Minh triều cúi đầu chào lãnh đạm.
 
Phan Tri Phủ cẩn thận liếc ra ngoài cửa. Bên ngoài vẫn vắng lặng. Ngài bước ra khép chặt cửa thư phòng, khóa trái ở bên trong và lần mở các mâm vàng, rồi đăm chiêu cầm hộp quà của Mã đại tướng ngắm nghía. Chéo giấy hoàng điều còn in chức Thái Biện sứ của Mã Đại Tướng rành rành. Đặt chén sâm xuống kỷ, Phan Tri Phủ kéo ngọn đèn bạch lạp tới gần và lần mở hộp quà. Ở trong, chỉ một vuông giấy lụa màu vàng, cuộn một cây bút lông.
 
- Mã Đại Tướng quả là tay sành ý. Ngài biết mình thích thư pháp và sưu tập bút lông. Phan Tri Phủ tự nhủ như vậy. Nhưng, gửi từ Thanh Hóa vào có món quà này thì Ngài cũng có keo bẩn. Làm chức Thái Biện sứ, bao nhiêu tài vật Hoàng Việt đều được đưa qua tay Ngài để chở về Yên Kinh, chẳng lẽ lại chỉ cho mình cây bút?
 
Phan Tri Phủ phân vân không ít. Cây bút bằng trúc đen, tô sơn đỏ, sợi chỉ vàng quấn quanh chưa gỡ, còn mới nguyên. Soi trên ánh đèn, Phan Tri Phủ đọc được bốn chữ chạm thật khéo: „Thống Nguyên Ngự Chế“. Từ thời Hồ đây, cũng đã tròn một giáp rồi. Đây là văn phòng tứ bảo của Hồ Quý Ly, chắc do quân Minh trong vương khố Tây Đô…. Kéo ngọn đèn đến gần, Phan Tri Phủ thở dài gỡ sợi chỉ vàng chạy quanh quản bút. Mã Đại Tướng sành điệu nhưng hẹp lượng. Vẫn biết mình thích bút, nhưng phải là mâm vàng mới quý. Ngòi bút bằng lông sói trắng, loại cực quý. Năm Hợi, khi đỗ Thái Học Sinh, Phan Tri Phủ đã được thấy loại bút này. Quản bút trúc đen cực cứng, lại được mài sơn đỏ sẫm thành từng đường vân đen đỏ rất đẹp. Cầm bút đảo một chữ thảo, thấy chắc trong tay. Phan Tri Phủ kéo ra một tờ giấy lụa. Thử một câu thơ với bút mới trong ngày trọng đại này, cũng là một cách nối vẻ đạm bạc của thánh hiền…
 
Phan Tri Phủ ngắm nghía ngọn bút và đưa bút lên đèn. Là tay sành thư pháp, Ngài biết là phải hơ lửa đèn thật khéo để đốt sạch các sợi lông tơ nhỏ ở ngòi bút, mới bắt đầu dậm mực được. Nghiên mực đen bên ánh đèn có vẻ chào mời quyến rũ lạ thường. Nhìn lên ảnh cha, Phan Tri Phủ cười nhẹ, rồi chăm chú hơ bút trên ngọn đèn, chăm chú ngắm những đường vân nổi sắc dưới ánh lửa.
 
Bên ngoài, tiếng trống cầm canh báo hiệu quá giờ Tý. Đây là những tiếng động sau cùng Phan Liêu được nghe thấy ở cõi đời này.
 
*
 
Sau một đêm hội hè mệt nhọc đầy ác mộng, thành Nghệ đã tỉnh giấc trong kinh hoàng.
 
Tin Phan Tri Phủ bị ám sát chết ngay trong thư phòng khóa trái đã lan ra như một vệt thuốc súng. Nơi pháp trường, tám tên giặc Tàu được bố trí canh gác đã bị giết chết. Hàng cột tre cắm đầu người đã bị ai đó nhổ sạch, nằm ngổn ngang dưới đất. Những đầu người, đã bị một bàn tay bí mật nào đó lấy đi hết. Giữa pháp trường, ngọn đại kỳ đã bị xé nát, vứt xuống bùn và thay vào đó là một vuông lụa vàng: „Đây là số phận của Phan Liêu và giặc Tàu“. Trên lá thư cảnh cáo kỳ này đã có ký tên: „Long Môn Hiệp Khách“.
 
Cũng từ hôm đó, Long Môn Hiệp Khách ra tay trừ khử đám quân binh giặc Minh, với sự táo tợn thần sầu. Dân chúng Nghệ An chưa kịp mừng vì những hành động hào hiệp này thì đã lập tức bị quân Minh trả đòn khủng bố. Từng xâu người bị bắt đưa ra giữa pháp trường xử trảm. Tuyên cáo của Tổng Binh Trương Phụ đã được dán khắp nơi: „Mỗi binh tướng Thiên triều bị sát hại, Tổng Binh sẽ giết chết một trăm tên lê dân An Nam. Mọi người cung cấp tin tức hay giúp đỡ binh đội Thiên triều bắt được tên thích khách Long Môn sẽ tùy theo công trạng mà được miễn thuế, thưởng và và cất nhắc vào phủ.
 
Tình trạng khủng bố ghê rợn kéo dài đến bốn tuần, người ta vẫn không tìm ra tông tích Long Môn hiệp khách, và số người bị giết đã lên tới mấy ngàn. Những lời đồn đãi về tay nghĩa sĩ này đã lan truyền tới Thanh Hóa khiến Tổng Binh Trương Phụ khó chịu không ít. Ngài khó chịu, là pháp trường lại thêm đổ máu.
 
Nhưng, kỳ án Phan Liêu bị giết như thế nào thì vẫn chẳng ai giải cho ra. Viên Tri Phủ phản dân hại nước đã bị giết trong thư phòng khóa trái, không cửa sổ. Chung quanh, binh lính Thiên triều và quân hầu Nghệ An tấp nập bảo vệ suốt đêm. Ai giết Phan Tri Phủ? Giết như thế nào? Long Môn hiệp khách là ai? … Những câu hỏi này rồi cũng bị lãng quên trong bốn tuần kinh hoàng của Nghệ An. Nhiều người đâm oán tay hiệp khách đã gián tiếp gây tang thương cho gia đình họ vì những hành động sát nhân thích khách này.
 
Hai tháng sau, Nghệ An lại như có tang lớn, khi tin từ Hóa Châu về cho hay, nghĩa quân Trùng Quang Đế hoàn toàn tan rã. Vua Trùng Quang đã bị bắt, các tướng sĩ theo Ngài đều tử tiết. Còn Trùng Quang nhảy xuống biển tự trầm, ngay trên đường giặc đưa về Yên Kinh.
 
Chưa khi nào dân chúng Nghệ An lại tuyệt vọng đến như vậy. Trong khi đó, Trương Tổng Binh đã sai binh tướng mộ phu, vét dân xây đồn trấn thủ tại Lam Thành và dân gian thường gọi là Rú Thành. Chúng xây thành rất kiên cố, với ba lần lũy đắp vây quanh. Chúng sẽ còn trấn đóng lâu dài, người dân Nghệ An biết vậy mà than trời. Việc truy lùng nghĩa quân cũng được gia tăng ráo riết và có lẽ vì vậy, người ta không còn thấy Long Môn hiệp khách ra tay ngang tàng như trước.
 
*
 
Chân núi Lam Thành, trước khi lên con dốc ngược đưa tới chỗ quân binh giặc Tàu đang đóng trại xây lũy, có mấy mái nhà dân lụp xụp, thấp bé. Dân nơi đây làm nghề đốn củi, nhưng từ khi giặc Tàu mở rộng thành Nghệ An và xây lũy tới núi Lam Thành, dân chúng cũng đã bị bắt đi; xóm nghèo này vốn xơ xác, lại thêm tiêu điều. Nhưng, cũng từ ngày có quân binh qua lại, mấy mái nhà lá đã được lợp lại để làm quán nước. Hai bên đường đất quân phu đi qua là hai quán nước tương đối khang trang. Nhà chủ đã biết điều, cộng tác với quân binh Thiên triều nên chiếm được hai vị trí đắt khách nhất. Không ai thèm lưu ý tới phía trong, cũng có một quán nước tồi tàn, thường chỉ có dân An Nam ghé chân, trước khi lên dốc vào rừng đốn gỗ kéo về trại binh xây lũy.
 
Từ mấy hôm nay, người ta thường thấy một cụ già chống gậy vào quán uống nước. Cụ hay ngồi trầm ngâm cả buổi, nhìn quân binh giặc Tàu tải lương bụi mù ở ngoài, hay đám lê dân Hoàng Việt thất thểu lên dốc vào rừng. Ông cụ mặc áo đoạn xanh đã sờn, kiểu đã xưa cũ, có lẽ phải lên tới những năm Hưng Long, thời vua Anh Tôn, mới thấy. Trông cụ, ít ai đoán ra tuổi. Vẻ già nua cũ kỹ khiến người ta áng chừng cụ cũng phải trên lục tuần. Nhưng ánh mắt rất sáng và dáng đi còn vững chãi, làm bác chủ quán nước đoán cụ cũng chỉ trên năm mươi. Cụ ăn nói nhỏ nhẹ và chậm rãi, ngôn từ từ tốn và kiểu cách lạ tai. Nhìn cây gậy cụ chống, người ta đoán cụ cũng thuộc thành phần khá giả thời xưa. Màu gỗ lên nước đỏ sậm và trơn bóng như cánh kiến. Bác chủ quán chép miệng nghĩ thầm:
 
-Lại một thứ quý tộc triều Trần tàn cơ nghiệp vì giặc giã mà lưu lạc tới đây.
 
Hôm nay cụ có vẻ tươi tĩnh hơn mọi ngày, không còn đăm chiêu tư lự khi bước vào quán. Ngả nón bện lông chim đặt trên bàn, cụ đảo mắt nhìn quanh, và như mọi ngày, lại xin bình trà xanh và đĩa bánh đậu. Trong quán hôm nay cũng chỉ lưa thưa năm ba người khách. Bên cửa sổ, một cậu nho sinh, áng chừng vậy, qua cách ăn mặc và kết khăn, ngồi trầm ngâm nhìn vào rừng. Ngoài gần cửa ra vào, hai ba người dân phu lao động vừa ghé chân uống nước, trước khi cụ già đi tới. Góc trong, gần bàn nước của gã chủ quán, một gã trung niên dáng dấp nhanh nhẹn đang lần túi đếm mấy đồng bạc lẻ trả tiền nước. Nhìn nắm tiền kẽm, gã chửi đổng:
 
-Mẹ kiếp, ngày xưa có tiền rêu bể thì chê, chẳng gì cũng ăn mười mấy con rồng. Bây giờ có nắm tiền kẽm cũng không mua đủ bát nước. Thời thế đảo điên, Thiên triều ăn cướp!
 
Bác chủ quán liếc mắt dò xét, lo ngại, nhưng không thấy ai phản ứng gì với câu nói đổng của gã trung niên. Cụ già lại có vẻ thích thú với câu nói, khẽ đưa ngón tay ra hiệu cho chủ quán:

-Phần nước của ông bạn đây, xin để cho già này.
 
Thấy có người đồng tình, gã trung niên kéo ghế đứng dậy:
 
-Cụ tính xem có phải không, bạc giấy của Thái Sư thời đó mà chẳng ăn đứt tiền bây giờ sao? Lúc đó ai cũng oán người ta, đến khi giặc vào, chẳng ai ra đánh. Bây giờ nó vào đến tận đây, mới trắng mắt ra.
 
Đã lâu lắm mới thấy có người lên tiếng ca ngợi Hồ Quý Ly. Cụ già có vẻ thích thú nhìn bác chủ quán đang trợn tròn con mắt lo sợ nhìn quanh. Nơi đây tai vách mạch rừng. Ngoài kia, giặc Tàu đi nườm nượp mà gã trung niên này dám bạo gan nói đổng, mất đầu chứ chẳng chơi. Hai người nhà quê dự định đứng lên rồi lại ngồi xuống. Đã vào tới đây, chẳng lẽ lại bỏ ra? Một người lớn tuổi, trong hai người lặng lẽ kéo bạn ngồi xuống, xem chừng cũng muốn biểu đồng tình với những lời ta thán của gã trung niên. Cụ già khoan thai đứng dậy:

-Oán giặc lắm sao? Bạo miệng nói như ông bạn mà không sợ gặp nạn ư?

-Bẩm cụ, nạn đến đâu nữa? Mình sống khổ cực như trâu như ngựa thế này, thì còn có gì phải sợ nữa? Vả lại, cứ cúi đầu như thế này, thì càng giống trâu ngựa chứ làm sao khá hơn được! Tôi cứ ước ao, có thêm dăm bảy người nghĩa sĩ như Long Môn hiệp khách, bêu thêm ít đầu giặc ngoài hào kia, mới hả! Còn gì mà phải sợ nữa, cụ tính xem?

-Nhà bác này lại nói gở rồi. Lại còn muốn Long Môn hiệp khách ra tay? Cái thứ vũ phu đó có ra gì! Cũng phường mãi võ mà thôi!
 
Cả quán nước bỗng dưng lặng thinh, lạnh lẽo. Cụ già này là người thứ nhất, từ bấy lâu nay, đã lên tiếng mạt sát một người mà dân chúng Nghệ An coi là đại hiệp. Bác chủ quán định đánh trống lảng, e rằng ông cụ là tai mắt của quân Minh, thì gã trung niên đã đứng dậy, hậm hực bước tới:
 
-Thấy cụ già cả, tôi kính trọng, nhưng cụ cũng không nên chê người Long Môn đó. Hành động trừ gian của người ta là việc làm nghĩa hiệp. Sao cụ lại nặng lời bảo là vũ phu mãi võ?
 
Cụ già chậm rãi vuốt râu, liếc nhanh về phía người nho sinh ngồi bên cửa sổ, từ nãy giờ vẫn ngồi yên bất động. Như nhìn thấy rõ tất cả sự chú tâm căng thẳng qua cái bất động đó, mỉm cười nhẹ, cụ già nâng ly trà về gã trung niên:

-Bác đừng nóng giận già này. Già chỉ nói những điều mình nghĩ, chứ không nói oan. Long Môn hiệp khách là người có lòng, nhưng kém trí. Già chỉ muốn nói vậy thôi. Có quen biết gì người ta đâu mà dám nặng lời!
 
Cụ nói thiếu trí? Làm sao thiếu trí khi giết tri phủ Nghệ An mà không để lại dấu vết nào? Gã trung niên nhìn quanh phân bua. Khi đó, tôi còn làm việc trong phủ nên biết mọi chuyện. Trong phòng đóng kín, con muỗi không qua, sao tri phủ bị phóng tiễn chết đứng bên trong, mà bên ngoài không ai hay biết? Phi bậc đại trí, đại dũng, mấy ai làm được điều này?
 
-Trò tiểu xảo con trẻ! Cụ già cười nhạt, đi lại trong quán nước, trầm ngâm như đang nói với chính mình. Mấy bác thử nghĩ xem nhé! Phan Liêu là tay hay chữ, lại mê thư pháp, bút pháp, thích sưu tầm bút quý để luyện chữ. Điều đó, ai trong thành Nghệ An này cũng đã biết. Không đợi gã trung niên và hai bác nhà quê gật đầu trả lời, cụ già nói tiếp. Nếu trong bữa đại yến hắn khoản đãi bọn tướng sĩ Tàu, tôi đưa được một món quà, lồng trong mâm quà của giặc ban cho hắn, và nếu món quà đó là một cây bút quý, các bác nghĩ sao? Điều này đâu khó. Bây giờ tôi giết hắn bằng cây bút đó thì sao?

-Cụ luận chí phải, nhưng làm sao cụ vào tới đó để cầm bút giết hắn? Cho là mình có tuyệt chiêu đi, làm sao lọt vào thư phòng khóa trái để giết hắn bằng cây bút? Lần này, chính bác chủ quán đã không nén được tò mò mà góp chuyện và hỏi vặn cụ già. Hai người nhà quê há hốc mồm nhìn nhau, trong khi nơi cửa sổ, người khách mặc chiếc áo nho sinh vẫn lặng thinh. Tinh ý lắm, người ta mới thấy bàn tay đang bóp chặt chén nước, trắng cả mấy đầu ngón tay.
 
Cụ già lặng lẽ chắp tay sau vạt áo che lưng, đi lại giữa quán mà ôn tồn giải thích, như một cụ đồ dạy học:

-Các bác vẫn biết, bút tốt và mới phải được đặc biệt nâng niu. Gặp tay ham bút như Phan Liêu, làm gì người ta không đoán ra cử chỉ của hắn khi được một cây bút tốt, loại bút lấy từ ngự phòng ra, chẳng hạn? Khai bút mới, người ta thường phải hơ ngọn bút trên đèn để đốt lông tơ quanh mép bút. Vừa đốt, vừa soi, xem đã sạch lông hay chưa. Điều đó có đúng không nào? Mấy người nhà quê thì ú ớ nhìn nhau. Gã trung niên gật gù suy nghĩ, ra vẻ biết. Riêng chàng nho sinh bên cửa sổ thì đã khẽ xoay người, liếc nhìn cụ già. Ông cụ như không để ý gì đến người chung quanh mà tiếp tục giảng. Bây giờ, nếu trong quản bút, tôi để một mũi dao nhọn thật tròn, rỗng ruột mà không cán, một mũi phi tiêu, chẳng hạn?...

- Đúng rồi! Gã tri phủ chết như vậy đó cụ. Gã trung niên không dằn được vẻ ngạc nhiên, sôi nổi đứng lên giải thích. Sáng hôm đó, khi phá thư phòng vào, người ta thấy xác hắn đã chết cứng, và ngay trên mắt có ghim một mũi phi tiêu y như cụ nói vậy. Mà ... cụ là ai vậy? Sao cụ biết? ...

-Bác để già nói hết cái trò trẻ con này đã, kẻo lại trách già nặng lời nhiếc móc Long Môn hiệp khách, hay nghĩa sĩ ... gì đó của bác. Đã bảo là trò trẻ con. Nhưng phải công nhận là trò trẻ con mà công phu. Công phu là phải gài được phi tiêu trong cán bút. Công phu là phải tìm được keo tử nghị để giữ lưỡi mây không bật khi người khác cầm bút. Có một điều, xin hỏi bác là người biết chuyện, Phan Liêu nó chết, mặt tím ngắt, xùi bọt mép màu hơi vàng, phải không?

- Cụ là thần hay sao mà biết rõ vậy? Lúc Phan Tri Phủ chết, mặt ông ta tím bầm, hai bên bọt mép xùi ra, đã khô, màu vàng khi người nhà phác giác ra buổi sáng. Cụ nghĩ là...?

- Dĩ nhiên, một mũi phi tiêu làm sao kết liễu tính mạng của hắn được, dù là đâm vào mắt! Phải đánh thuốc độc. Già này thắc mắc xem loại thuốc độc nào được dùng, có vậy thôi. Như vậy, già đoán ra rồi. Đất Long Môn cách đây cũng không xa lắm, lên gần tới ranh giới Ngưu Hống và Nam Chưởng. Đất này có lắm thổ sản kỳ dị. Hoàng lạp nơi đây trộn với tử nghị cho ta một chất cao rất cứng, nhưng lại rất dễ chảy khi gặp nhiệt. Loại đồng thạch-lục sản xuất ở Mai Sơn là một chất đồng non, rất dễ pha và rất nhẹ, đánh phi tiêu rất tiện. Nước sông Mỹ Hà không thiếu gì độc chất bốn mùa kết lại, pha với diêm tiêu là dẫn độc rất nhanh. Ăn vào máu thì chỉ trong chớp mắt, lục phủ ngũ tạng bị phá tan và xùi bọt mép mà chết. Thổ dân nơi đây hay dùng lại thuốc độc này tẩm cung tên đi bắn. Long Môn hiệp khách, như tên gọi, là người đất Long Môn trên mạn ngược ... Ở tận Hưng Hóa, vì sao lại lặn lội xuống tận đây hành hiệp không biết nữa. Già này khâm phục cái chí, nhưng vẫn chê là thiếu trí. Giết một mạng khuyển ưng đó, làm trăm người khác chết oan, đâu phải là giải pháp? ... Mà thôi, nói chuyện quốc sự như thế, sợ chủ nhà ở đây bất an, già xin kiếu. Dù sao, cụ già cầm nón vái chào gã trung niên, bác là người cương cường, thật quý. Hãy đi tìm anh em đồng chí hướng mà đuổi giặc. Ở đây uống nước, ta thán đến chiều, chẳng làm giặc chùn tay đâu! ...
 
Không ai thấy cụ già đi ra thoăn thoắt như thế nào. Và, cũng không ai thấy cụ đi về hướng nào. Mọi người đều há hốc mồm nhìn nhau, ngạc nhiên và những lời giải thích của ông cụ, thật đơn giản mà thật tinh vi. Chẳng lẽ, ông cụ lại là ...? Mấy người nhìn nhau, vẻ mừng rỡ lẫn sợ hãi. Chẳng lẽ chính ông cụ là tay hiệp khách dị kỳ đất Long Môn? Nếu không, làm sao cụ biết được tường tận như đã từng đứng ngay trong thư phòng của Phan Tri Phủ? Như đã tự tay rèn lấy thứ ám khí kỳ dị này? Trong quán nước về chiều, ba người khác và bác chủ quán đưa mắt hỏi nhau, rồi nhìn về phía chàng nho sinh ít nói. Mọi người lại thêm một lần nữa ngạc nhiên ...
 
Như đã tuồn ra cửa sổ, chàng nho sinh đã rời khỏi quán lúc nào không ai hay. Trên mặt bàn chỉ còn mấy đồng bạc kẽ nằm trơ trọi bên khay nước. Đến gần lấy tiền, bác chủ quán mới trợn tròn con mắt khi đọc hai chữ “Long Môn” chấm nước trà viết trên gỗ.
 
Nét viết rất mạnh, nhưng mờ dần, mờ dần, như muốn tan trong thinh không vắng lặng của quán nước ...
 
*
 
Không ai có thể ngờ cụ già chống gậy lại đi nhanh đến như vậy. Trong ánh chiều tối xẫm dưới chân núi, người ta chỉ thấy cụ già thấp thoáng ẩn hiện. Xa xa, trại binh giặc có tiếng tù và buồn bã, vang vọng cùng màu bóng cây. Vầng trăng non của tháng Chín mới bắt đầu nhô lên khỏi tàng cây phía Đông.
 
Đằng sau, bóng đen rảo bước chạy theo chính là người nho sinh đã ký tên “Long Môn” trong quán nước.
 
Hai người, một già, một trẻ, dường như không bảo nhau mà cùng thi triển khinh công trong rừng. Cụ già đi chậm, bóng sau cũng đi chậm; cụ già rảo bước, bóng chạy nhanh hơn, như cũng không muốn che dấu tung tích. Vượt qua khu rừng rậm, xa dần triền núi, cụ già đột nhiên biến mất. Đi sau, chàng nho sinh đảo mắt tìm kiếm mãi không ra. Đến cả tuần nhang, chàng mới lần mò đến được bờ tường mà vào. Tiếng giun dế nỉ non làm không khí tịch mịch quạnh hiu càng thêm lạnh lẽo. Ánh sáng yếu ớt bên trong chỉ soi bóng cụ già đang ngồi im trước bệ. Trên bệ thờ, ánh đèn hắt lên tường một bức tượng ngồi tĩnh lặng. Trông người ngồi dưới và bức tượng ở trên, chàng nho sinh không khỏi bỡ ngỡ.
 
- Con vào đây! Cụ già lên tiếng, như đã chờ đợi chàng nho sinh từ muôn đời muôn kiếp. Con vào đây nghe ta nói. Con đã giết Phan Liêu như vậy phải không? Ta luận có điều gì sai chăng?

- Thưa ... dạ thưa Cụ, không sai một mảy may. Làm sao Cụ biết, và sao Cụ chê là bất trí?

- Con tính xem, mỗi ngày giết một tên giặc, hay trừng phạt một tên phản dân hại nước, con sẽ giết được bao nhiêu đứa trong suốt cuộc đời trăm năm của con? Trong khi đó, có bao nhiêu mạng dân sẽ chết oan vì giặc Tàu trả thù? Cách hành hiệp của con quả là có đáng yêu, có cái anh hùng tính rất đẹp mắt. Nhưng, đứng trên đại thể của dân tộc, nó chưa phải là cách rốt ráo.

-Thưa Cụ, giặc Tàu qua đây chiếm đóng nước ta, giết một đứa là bớt đi một đứa. Những tên bán nước hại dân, trừ một đứa là đỡ một đứa. Vả lại, không giết chúng nó, tất nghĩa quân mình sẽ bị hại. Con trộm nghĩ vậy nên dùng thuật riêng để góp phần chống giặc. Ngoài việc hành thích chúng nó, lấy của trả lại cho dân, con cũng chưa tìm ra cách nào khác ...

-Ta biết vậy. Con chưa tìm ra, vì không chịu dùng cái tâm mà suy cho đến cùng đấy mà thôi. Việc chống giặc, mỗi thời mỗi khác. Đời Trần, giặc Nguyên vào như thác lũ, khí thế hung hăng. Chúng không có chính nghĩa, trong khi đại khối dân ta đều một lòng. Thời đó, các đấng Tiên quân và đức Hưng Đạo Vương đã đánh theo một cách. Đó là làm bớt nhuệ khí của chúng, rồi công lương đả viện để chúng nao núng tinh thần, rồi tập trung binh lực và sức đề kháng của dân tộc mà dùng đoản binh đánh trường trận đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Đó là cái thế nước lửa đối chọi. Chúng đến ào ào như lửa như gió, bên ta thì binh tướng như cha con mà trị được chúng. Ngày nay giặc vào nước ta với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ” để phân hóa lòng dân. Rồi tìm người Việt để cai trị người Việt, theo lối củi đậu nấu đậu. Chúng vào hết đợt này đến đợt khác, tới đâu cũng đưa người Hoàng Việt vào bộ máy cai trị, theo thế tầm ăn dâu. Chúng vào để ở lại lâu dài. Trong khi đó, dân tâm của ta thì ly tán. Năm xưa, từ trên xuống dưới chỉ biết chê trách cha con Quý Ly mà không nhìn ra giặc dữ. Giặc vào, bó tay hàng giặc biết bao nhiêu người. Rồi, quan lại của ta cũng suy đồi đạo đức và tư tưởng mà chỉ nghĩ đến thân mình, nhà mình; có chống giặc thì cũng chỉ là vì riêng mình. Làm sao có có thể lấy võ lực, vốn là sở đoản của ta trong thời này, để chõi lại binh lực vốn là sở trường của chúng?

-Bẩm Cụ, người tráng sĩ lấy tay áo chùi mặt, vẻ thảm não hỏi lại cụ già, con có mường tượng ra điều đó từ khi thấy chúng đánh thành Đa Bang, với sự giúp đỡ của nhiều người mơ tưởng việc xây dựng lại triều Trần, và chiêu tập lưu dân cắt quan cai trị.

- Thì vậy. Nay con biết dân ta oán chúng đến chừng nào? Những chỉ muốn có nơi kêu gọi, là muôn dân sẽ tập trung vào một hướng. Tại sao con không nghĩ đến sức mạnh của muôn dân, nó chẳng hơn cung tên, gươm dáo đến trăm lần sao? Nếu dân ta quyết không nuôi giặc, chúng đi đến đâu, ta đốt sạch đồng nội để không góp gạo cho chúng. Nếu từ Lạng Giang, Đông Đô xuống Thanh Hóa, Lạc Thủy, vào Chí Linh, Lam Sơn, xuôi Diễn Châu, Nghệ An tới Thuận Hóa, nơi nào binh tướng giặc Minh cũng gặp khó khăn vì bị thiếu lương, vì bị muôn dân phá hoại thì làm sao chúng có thể yên trị được? Phải làm chúng mệt, lấy cái nhàn của ta đánh cái mệt của chúng. Phải làm chúng đói, lấy cái no của ta đánh cái đói của chúng. Phải làm cho chúng bệnh, lấy cái khỏe của ta đánh cái bệnh của chúng. Con nên nghĩ cách dùng tâm, dùng trí để đánh chúng bằng mưu kế lâu dài...

- Làm sao con đảm đương nổi việc đó, thưa Cụ, con chỉ có một thân một mình ...?

- Vì vậy ta mới nói con là kẻ thiếu trí. Cụ già cao giọng nói trong bóng tối của ngôi đền cổ, hai mắt sáng long lanh. Con nghĩ là chỉ mình con thù giặc thôi sao? Con nghĩ là đám lê dân kia không biết chống giặc và chỉ trông cậy vào tay con thôi sao? Nếu biết vận dụng sức đề kháng của dân tộc, ngôi miếu cổ này cũng thành chiến khu, bìa rừng kia cũng là mồ chôn giặc. Quán nước hồi chiều sẽ là một trạm giao liên, mấy người dân con đã gặp sẽ trở thành nghĩa quân. Con phải chống giặc với toàn dân, chứ không để lưu danh “Long Môn hiệp khách” cho người đời khâm phục!
 
Người tráng sĩ cúi đầu ngượng ngập. “Long Môn hiệp khách”, sự kiêu hùng kéo dài non tháng ở thành Nghệ quả chưa phải là hành động tranh đấu đến nơi đến chốn. Vẻ mặt đăm chiêu, con người đã tính chuyện chọc trời khuấy nước tự nhiên thấy mình yếu đuối vô cùng trước một ông già lim dim ngồi trong miếu cổ. Ngoài kia, trăng đã lên tới đỉnh, vành cung cao vút.
 
Cụ già từ từ mở mắt, nhìn chàng tráng sĩ vẻ hiền từ:
 
-Ta biết con đang rất mực hoang mang. Nhưng, hãy quên khả năng cung kiếm của con đi. Con chống giặc cho hả giận, con chống giặc để khỏi bị bắt xử trảm, hay chống giặc để đuổi chúng ra khỏi bờ cõi và cứu lấy muôn dân? Việc đuổi giặc phải là việc  chính, anh hùng tính của con chỉ là phụ. Cái tài xuất quỷ nhập thần của con sẽ không làm giặc tan được đâu! Trước hết con phải biết từ từ bẻ chân rết, rồi con sẽ thấy, chúng chỉ là con giun. Đừng giết người vô ích mà chỉ nên nghĩ cách chiêu hàng đám quan lại Hoàng Việt, để họ trở về với giòng giống Việt và làm nội ứng đánh giặc ngay trong quân ngũ của chúng. Con giết bọn phản loạn là đẩy họ vào cái thế phải bảo vệ quan thầy để giữ mạng sống; tức làm rết mọc thêm chân. Hãy biết “công tâm” hơn công thành, hãy biết dùng tâm trí mà đánh vào tinh thần của giặc. Con nghe ta nói không, Mộc?
 
Người tráng sĩ đất Long Môn ngửng đầu kinh ngạc. Cụ già kín đáo gật đầu, rồi moi trong túi áo ra một cuốn vở đặt lên đùi.
 
-Ta biết tên con chứ. Tổ tiên con, từ bảy tám đời nay đã phục vụ Trần Triều và có mối duyên riêng với gia đình ta. Ta biết, con đã từ Hưng Hóa lặn lội theo đại binh Trương Phụ để mưu thích khách mà chưa thành. Phải biết khi nào cần tha, khi nào cần giết mới được. Ta thương gia đình con bảy đời xây dựng vùng Hưng Hóa với ta nên tìm đến con. Họ Đinh của con sẽ còn là khai quốc công thần lần nữa cho triều Lê sắp tới...

- Thưa Cụ, triều Lê nào?!... Còn riêng Cụ, con ngu tối vẫn chưa đoán ra cao danh ...?

- Tên ta không quan trọng. Trần, Lê gì cũng vậy thôi. Con hãy vào Lam Sơn đi. Hôm nay là ngày Trùng Cửu. Rằm này con sẽ gặp bạn cùng chí hướng trên đường tới Lam Sơn. Nơi đây con sẽ có dịp đem sự hiểu biết của con về các sắc dân Thổ, Mường để chống giặc cứu nước. Ta chỉ dặn con là, làm gì cũng phải biết quên mình đi. Sau Trùng Quang, nhà Trần sẽ tuyệt; nhưng Trần tuyệt mà Hoàng Việt vẫn còn mới là điều đáng để con suy gẫm ...
 
Long Môn tráng sĩ cúi đầu như uống từng lời nói của cụ già kỳ dị. Tiếng chim hót ngoài miếu khiến chàng như chợt tĩnh, ngửng lên nhìn cụ già.
 
Trước bệ thờ, chỉ còn ngọn đèn khô dầu leo lét cháy. Cụ già đã ra đi tự hồi nào. Nếu không còn tập vở trước mặt, chàng đã tưởng mình nằm mơ. Đảo mắt nhìn quanh miếu, chàng hiệp khách đất Long Môn chỉ thấy sự tĩnh lặng oai nghiêm của pho tượng thờ trên bệ. Quỳ dậy cầm tập vở, lần từng trang dưới ánh đèn chập chờn muốn tắt, chàng thấy ngần ấy trang chỉ ghi hai chữ “công tâm”. Ở trang cuối, một chữ “Duật” viết theo lối thảo, dợm bay như rồng thiêng hiện trong mây.
 
Chàng vươn vai đứng dậy, ra tới miếu như người vừa tĩnh ngủ. Bên ngoài, trời đang sáng hẳn. Quay lại nhìn ngôi miếu cổ, chàng thấy rõ bốn chữ “Chiêu Văn Vương Miếu”.
 
Đây là ngôi miếu thờ Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, một vị đại tướng triều Trần. Vương là một tay am hiểu binh thư và đặc biệt đã có công khai phá khắp vùng Hưng Hóa; và cũng là một tay bác học hiểu rõ phong tục các sắc dân miền Thượng Du Hoàng Việt. Bảy đời trước, tổ tiên Đinh Công Mộc đã từng là tùy tướng của Vương và đã tham dự những trận đánh oai hùng nhất của lịch sử Hoàng Việt, khi ngăn chống giặc Nguyên ba lần trong ba mươi năm.
 
Họ Đinh của chàng là một thế gia vọng tộc vùng Hưng Hóa, thời đó đã là thành trì bảo vệ Tây biên của đất Hoàng Việt.
 
*
 
Trên đường tìm vào Lam Sơn, ngày rằm tháng Chín, Đinh Công Mộc có gặp một người bạn đồng hành. Bạn là người đã đỗ Thái học sinh từ mười mấy năm về trước và trọn mười năm qua, đã lặn lội khắp nơi để học cách chống giặc. Cho tới ngày chín tháng Chín ở Chí Linh, người bạn đã gặp một dị nhân để luận về “Bình Ngô Sách” ... Và đã được chỉ đường vào đất Lam Sơn.
 
Theo lời kể của người bạn, một tay văn nhân thao lược hơn đời, dị nhân đêm trùng cửu là một cụ già chống gậy, mặc áo đoạn màu xanh lam đã cũ...
 
Tháng 11, 1985
 
 
Cước chú:
 
Đại Nam Nhất Thống Chí viết về tỉnh Hưng Hóa: “Tỉnh này ở miền thượng du các hạt Bắc Kỳ, hình thể bao la, ít đồng ruộng mà nhiều rừng núi. Danh sơn có các núi Động Đình, Pha Lũng, Hùng Nhĩ và Bắc Thiệt cao chót vót ở phía Đông và phía Tây. Đại xuyên (sông lớn) thì có sông Thao, sông Đà bao bọc tả hữu. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam, có các đồn Bảo Thắng, Phong Thu ngăn chặn nơi hiểm yếu. Phía Tây có phủ Điện Biên chế ngự nước Nam Chưởng. Còn hai mặt Đông, Nam tiếp giáp với các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Sơn Tây và Tuyên Quang. Đại khái, tỉnh này có nhiều rừng núi xen lẫn thật là hiểm trở, ngăn đón bảo vệ miền biên giới.
 
Cũng theo “Đại Nam Nhất Thống Chí”, ở châu Đà Bắc tỉnh Hưng Hóa, gần Châu Lỵ, phía trước mặt sông Đà, có núi Long Môn, còn có tên khác gọi là Thác Pha. Đá núi chặn ngang đến nửa sông, thế nước chảy rầm rộ rất nguy hiểm. Nhà Lý đánh giặc Ma Sa, có đóng quân ở eo Long Thủy, tức là chỗ này. Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” chép: “ Núi này ở huyện Triện Phủ Gia Hưng, trước giáp sông lớn, có đá đứng chót vót bao quanh, ít người lai vãng. Tục truyền, trên núi có cây ngải tiên, thường đến mùa Xuân nở hoa, gặp mưa, hoa trôi xuống sông. Bầy cá nuốt hoa, bèn qua sông Long Môn hóa thành con rồng”.