Alexandre Yersin |
Cách
đây trên một thế kỷ, ngày 29/07/1891, một thanh niên Pháp 28 tuổi, mảnh
khảnh, rụt rè mà cương quyết, y sĩ của tàu hàng hải thương thuyền, đặt
chân lên bờ biển Nha Trang và bị chinh phục bởi vẻ đẹp của đất nước này.
Thanh niên ấy chính là bác sĩ Yersin, nhà bác học tương lai, về sau
chiến thắng bịnh dịch hạch, lừng danh thế giới, có lòng nhân ái, suốt
đời gắn bó với đất nước dân tộc VIỆT NAM và được tôn sùng như thần
thánh.
Thời niên thiếu
Alexandre
Yersin sanh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại hạt Lavaux tổng Vaux tỉnh
Morges, tây nam nước Thụy Sĩ. Cha là Jean Yersin giáo sư Khoa học Tự
nhiên tại trường trung học ở Morges nổi tiếng với những công trình
nghiên cứu về côn trùng học, mất năm ba mươi tám tuổi, ba tuần trước khi
Alexandre Yersin người con thứ ba của ông ra chào đời.
Một
buổi sáng tháng 4 năm 1886, tại bịnh viện Hôtel Dieu, trong buổi thực
tập, A. Yersin được giới thiệu với giáo sư Émile Roux. Chẳng mấy chốc
giáo sư Émile Roux đã nhận thấy tính chuyên cần, ham học, ham làm của A.
Yersin. Bấy giờ Émile Roux làm phụ tá cho nhà bác học Louis Pasteur tại
phòng thí nghiệm của trường cao đẳng sư phạm ở đường Ulm quận 5 Paris.
Ngoài giờ làm việc tại Hôtel Dieu, A. Yersin được phép đến phòng thí
nghiệm đường Ulm, thực tập. Một mặt, A Yersin lo làm luận án tiến sĩ y
khoa “Bịnh lao thực nghiệm”, một mặt cộng tác với Émile Roux, nghiên cứu
vi khuẩn bịnh “bạch hầu”.
A. Yersin cũng được nhà bác học Louis Pasteur lưu ý. Ông bà Pasteur mời Yersin cùng Émile Roux dự buổi ăn tối tân niên 1888.
Trong
thư gởi cho mẹ, A. Yersin kể: Đúng 8 giờ, con và ông Roux rời phòng
thí nghiệm để lên phòng của ngài Pasteur, chỉ cần băng qua sân của
trường. Bữa ăn tối rất ngon và thoải mái. Sau đó, các vị hút thuốc (dĩ
nhiên là không có con). Kế đó, mọi người sang phòng khách. Ngài Pasteur
đề cập đến công trình nghiên cứu rất quan trọng do ông Roux vừa thực
hiện, và đăng trong số chót của tập biên niên viện Pasteur. Đúng như
thế, công trình nghiên cứu này chứng minh có thể chủng ngừa một số bịnh
nhiễm trùng nặng, không phải bằng những vi khuẩn gây bịnh, vì dù đã bị
làm yếu đi, chúng vẫn còn nguy hiểm, mà dùng độc tố những vi khuẩn tiết
ra, nghiã là với
một hoá
chất hoàn toàn mất sinh lực. Ngài Pasteur cũng có nói về con, là sau
khi tốt nghiệp bác sĩ, con sẽ là thành viên tích cực cuả viện Pasteur.
Năm
1888, A. Yersin vừa đúng 27 tuổi trình luận án tiến sĩ y khoa “Bệnh lao
thực nghiệm”, và được nhận làm phụ tá cho giáo sư Émile Roux, trong
viện Pasteur vừa khai trương năm ấy tại Paris.
Dưới sự hướng dẫn của Émile Roux, A. Yersin tìm ra độc tố của vi khuẩn bạch hầu.
Từ bỏ đường công danh để theo khuynh hướng thiên nhiên
Một
tương lai rực rỡ đang chờ Yersin ở viện Pasteur, nhưng là người thích
mạo hiểm thích phiêu lưu, A. Yersin không thể nào mãi mãi tự giam mình
trong phòng thí nghiệm. A. Yersin muốn vẫy vùng cho thỏa chí, thường nói
với các bạn: Tôi luôn luôn mơ ước khám phá nơi nầy nơi nọ và thám
hiểm; Khi ta còn trẻ không có gì là không thể được. Người hiểu A.
Yersin hơn ai hết có lẽ là Noel BERNARD nguyên giám đốc viện Pasteur
Saigon. Theo ý ông: A. Yersin muốn thoát ly khỏi những mối lo âu gia
đình, những tham vọng về danh lợi, và địa vị không bao giờ thoả mãn,
muốn ra khỏi lề lối ràng buộc.
Thế
rồi tháng 9.1890, A. Yersin đáp tàu sang Viễn Đông giữa sự bàng hoàng
của các thày các bạn. Ông sang Viễn Đông không phải với tư cách một sứ
giả khoa học, mà chỉ với tư cách một bác sĩ làm công hợp đồng cho hãng
“Vận Tải Hàng Hải”. Pasteur đã viết trong nhật ký của mình ngày
23.10.1892: “Bỗng nhiên ý định cuồng nhiệt của Yersin không ai ngăn nổi.
Không làm sao cầm giữ ông lại bên cạnh chúng tôi nữa.”
Đất lành chim đậu
Khu vực tòa hành chính Pháp ngày xưa tại Nha trang, nay là công viên Yến Phi. Ảnh do BS Yersin chụp ảnh khoảng năm 1932.
Yersin
làm việc trên chiếc tàu chạy dọc bờ biển Việt Nam nối liền Sài Gòn, Nha
Trang, Hải Phòng. Lần đầu tiên, mặc dầu thấy Nha Trang từ đằng xa,
Yersin đã bị chinh phục.
Lần
sau, Yersin xin phép lên bờ với chiếc thuyền độc mộc mà ông đem theo.
Đó là ngày 29.7.1891. Phong cảnh hữu tình, bờ biển, cửa sông, các đảo
ngoài khơi, màu sắc rực rỡ của một vùng quê nhiệt đới, khí hậu ôn hoà,
chinh phục Yersin. Ông quyết định chọn Nha Trang làm quê hương thứ ba,
làm việc và sống chết ở đây.
Năm
1896, A. Yersin viết thư mời Émile Roux đến làm việc chung với ông. Ông
tán dương vẻ đẹp quyến rũ của đất nước ViệtNam, và sự niềm nở của dân
chúng ở đó.
Nhà thám hiểm
Sau
khi tìm được mảnh đất lành, A. Yersin xin thôi việc ở “Vận Tải Hàng
Hải”. Bác sĩ A. Calmette cũng là môn đệ của Pasteur, đến Sài Gòn lập chi
nhánh viện Pasteur, mời ông cộng tác, ông từ chối vì muốn đi thám hiểm
vùng cao nguyên Trung Việt.
Đầu
tiên ông muốn tìm một đường bộ nối liền Nha Trang với Sài Gòn. Từ Nha
Trang, ông đi ngựa ra Phan Rí rồi thuê một người dân thiểu số dẫn đường
vào rừng. Đến Di Linh gặp nhiều trở ngại đành quay lại Phan Thiết, lấy
thuyền về Nha Trang.
Lần
thất bại nầy không làm ông nản chí. Yersin quyết tâm thám hiểm các miền
rừng núi dọc theo dãy Trường Sơn. Thời bấy giờ các vùng ấy còn là những
nơi bí hiểm, rừng thiêng nước độc. Ngoài các bộ lạc thiểu số không
khuất phục triều đình, ít ai đặt chân đến nơi hoang vu ấy.
Ngày 23.9.1892, Yersin lên đường đi thám hiểm lần thứ nhứt.
Trong
thời gian hai tháng rưỡi, Yersin đã thành công việc quan sát các bộ lạc
thiểu số, chụp 140 ảnh giá trị, và vẽ hoạ đồ những vùng đã trải qua.
Ông đã phát giác những phụ lưu của sông Cửu Long phát nguyên tại Trường
Sơn chảy đến Stung Treng.
Ngày 29.1.1893, tại Sài Gòn, Yersin gặp Jean Marie De Lanessan, toàn quyền Đông Dương, giao cho ông nhiệm vụ thám hiểm vùng Sơn Lâm phiá nam Trung Việt, nghiên cứu phương án làm đường đi đến các vùng dân tộc thiểu số, khai thác khoáng sản và lâm sản, cùng khả năng chăn nuôi.
Phát giác cao nguyên Lâm Viên
Đà Lạt cuối thế kỷ 19
Ngày
29.1.1893, ông khởi hành từ Biên Hoà có 4 người Việt phụ tá. Sau khi
vượt qua núi rừng hiểm trở và các làng mạc của dân tộc thiểu số, ngày
21.6.1893 Yersin phát giác Cao Nguyên Lâm Viên, cao 1500 thước, tức
thành phố Đà Lạt ngày nay. Yersin ghi trong sổ tay: “Ấn
tượng thật là sâu sắc. Từ trong rừng thông bước ra, tôi thấy ngay trước
mặt khu cao nguyên rộng lớn trơ trụi, giống như mặt biển đang cuộn lên
những đợt sóng xanh rì. Rặng núi Lâm Viên với 3 đỉnh cao 2000 thước,
vươn lên từ chân trời phiá tây bắc, tạo nên bức phông hùng tráng làm
tăng vẻ diễm lệ của vùng nầy”.
Năm
1899, Paul Doumer toàn quyền Đông Dương cho thiết lập nơi ấy một trung
tâm nghỉ mát cho người Âu Châu, sau này là thành phố Đà Lạt. “Đà Lạt” là
tên gọi của địa phương do ở đó có nhiều suối lớn, sông dài và có dân
tộc LẠT cư ngụ. Giải thích khác của một cố đạo bằng tiếng La Tinh là sai
lạc.
Lần
ấy, trên đường về, đoàn thám hiểm bị phục kích. Yersin bị thương phải
đưa võng về Phan Rang. Kẻ tấn công ông là tù chánh trị thoát ngục. Một
tuần sau, dân quân bắt lại được 40 người trong 56 người vượt ngục, có cả
người chỉ huy tên Thục, cao lớn và thanh lịch. Yersin viết thư cho mẹ
về cuộc hành hình của tù chánh trị : “Hôm nay, Thục bị xử trảm. Con có
dự. Thật ra rất là ghê tởm. Sau nhát gươm thứ tư đầu mới rơi. Hơn nữa,
Thục rất trầm tĩnh. Những người Việt Nam chết can đảm khác thường”.
Ngày 12.2.1894 Yersin lại lên đường thám hiểm lần thứ ba.
Chuyến
này gay go cực nhọc hơn trước. Ngày 11.4, ông ghi trong sổ tay: “Đường
đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua
một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế mãi làm
cho chúng tôi rất mệt mỏi. Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng
tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều
vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt
rét mặc dầu đã uống thuốc ngừa… Chúng tôi đi qua các làng của bộ tộc
Keuyong, Jri Taseng, rất cực nhọc”.
Một khúc quanh lịch sử trong đời Yersin
Các
người tình nguyện đang tẩy uế nhà cửa khi dịch hạch đang hoành hành ở
Hồng Kông năm 1894. BS Yersin đã sang Hongkong để nghiên cứu về dịch này
Năm
1892, ít lâu sau vụ thám hiểm lần thứ nhứt, Calmette khuyên Yersin nên
gia nhập đoàn y sĩ hải ngoại để khỏi lo về mặt tài chánh. Chính trong
khi giữ chức vụ nầy, Yersin có cơ hội tìm ra vi khuẩn bịnh DịCH HẠCH.
Yersin
không đoán trước được rằng nhiệm vụ mới nầy sẽ đưa ông đến đài vinh
quang, và ông phải cần viện Pasteur bảo trợ như trước.
Yersin dưới mắt người đồng thời
Các
đồng nghiệp của ông Yersin tại viện Pasteur Paris và những người Pháp
tại Đông Dương thấy ông phân tán trí thức lấy làm gai mắt, cho ông là
một người kỳ dị. Càng gai mắt hơn nữa là ông thành công trên nhiều lãnh
vực.
Luôn luôn tiên phong trong những lãnh vực mới, những phát minh tối tân, ông là một tư nhân đầu tiên có được:
- Máy phát thu bằng chữ morse để liên lạc Nha Trang, Suối Dầu, Hòn Bà;
- Máy thu thanh tân tiến, bắt được các đài bên Pháp;
- Kính thiên văn
- Máy phát thu bằng chữ morse để liên lạc Nha Trang, Suối Dầu, Hòn Bà;
- Máy thu thanh tân tiến, bắt được các đài bên Pháp;
- Kính thiên văn
.
Nhắc đến Yersin, ai cũng hình dung một ông cụ già khiêm tốn ăn mặc
xuềnh xoàng đi chiếc xe đạp cũ kỹ, quên rằng Alexandre Yersin đã làm bực
mình các giới chánh quyền bấy giờ với những chiếc ô-tô tối tân. Luôn
luôn tiên phong trong những lãnh vực mới, năm 1932, khi chuyến bay đầu
tiên của hàng không Pháp nối liền Sài Gòn-Paris thì ông dùng máy bay để
vận chuyển.
Tháng
3 năm 1940, Yersin 77 tuổi, lấy máy bay về Pháp để dự buổi họp hằng năm
của viện Pasteur Paris. Một cuộc hành trình rất gay go. Ngày 30 tháng 5
năm 1940, chuyến máy bay cuối cùng đưa ông về ViệtNam, trước khi quân
đội Đức vào Paris.
Nơi cư trú của Yersin
Ngôi
nhà của BS Yersin tại Nha Trang khoảng những năm 1900. Ngày nay, đã bị
phá bỏ, trên nền đất đó hiện nay là Nhà khách 478 của Bộ Công An VN
Yersin thích sống chung với người dân nghèo chài lưới và đã chọn cái lô-cốt hai tầng lầu bỏ hoang gần xóm Cồn và cửa sông cái.
Từ năm 1895, Yersin đã tạo lập cho mình chỗ ở tuyệt vời để hằng ngày quan sát và hoà nhập với thiên nhiên.
Lô-cốt mỗi bề khoảng 7m50. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc. Có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn.
Lô-cốt mỗi bề khoảng 7m50. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc. Có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn.
Nhà bác học vị tha
Đó là một người không chạy theo danh vọng, quyền lợi cho riêng mình.
Ông đầu tư ngay số tiền kèm theo các giải thưởng vào các công trình đang thực hiện. Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh đem lại cho ông 250 quan Pháp mỗi năm. Giải Audiffret của Hàn lâm viện Tâm lý và Chính trị có kèm theo 15000 quan Pháp. Ông dùng số tiền này tiếp trợ cho nền tài chánh Suối Dầu. Giải thưởng Lassen đem lại cho ông 8000 quan Pháp. Ông dùng ngay tiền đó vào việc mở đường mòn nói liền Suối Dầu-Hòn Bà.
Ông đầu tư ngay số tiền kèm theo các giải thưởng vào các công trình đang thực hiện. Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh đem lại cho ông 250 quan Pháp mỗi năm. Giải Audiffret của Hàn lâm viện Tâm lý và Chính trị có kèm theo 15000 quan Pháp. Ông dùng số tiền này tiếp trợ cho nền tài chánh Suối Dầu. Giải thưởng Lassen đem lại cho ông 8000 quan Pháp. Ông dùng ngay tiền đó vào việc mở đường mòn nói liền Suối Dầu-Hòn Bà.
Tháng
12 năm 1927, khi nhận giải thưởng Leconte của viện Hàn lâm Khoa học,
ông tuyên bố :”Giải thưởng nầy là vinh dự cho viện Pasteur và số tiền
nhận được sẽ giúp cho các cuộc thí nghiệm trồng cây quinquina”.
Ông
không hãnh diện, không phô trương huy chương. Đây là một đoạn thư ông
viết cho mẹ năm 1890 khi ông hai mươi bảy tuổi :” Mẹ hãy tưởng tượng xem
ông Pasteur đã xin được cho con huân chương của Hàn lâm viện. Các thành
viên của viện đại học Pháp rất mong muốn có được tấm huân chương màu
tím này, song bản thân con lại không hề thấy mình xứng đáng được nhận”.
Khi
Vua Bảo Đại trao tặng bội tinh Kim Khánh cho ông, vì phép lịch sự ông
buộc lòng phải cho Vua Bảo Đại đeo Kim Khánh vào cổ mình, nhưng khi vừa
bước xuống, ông đã e lệ dùng chiếc mũ ép lên ngực che hết chiếc huân
chương Kim Khánh. Năm 1938, trường trung học Đà Lạt muốn có một bức
tượng bán thân của Yersin, ông cương quyết từ chối làm mẫu.
Khi
Toàn Quyền Decoux muốn biết tên những người quyền quí, danh tiếng, mà
Yersin đã gặp, ông trả lời :“Ở Đông Dương tôi ít giao thiệp với những
hạng người ấy.”
Người con hiếu thảo
Xa
nhà, dầu ở Pháp, Việt Nam hay Trung Quốc, hầu như tuần lễ nào ông cũng
viết thư cho mẹ. Tính đến khi mẹ ông mất, năm 1905, ông đã gởi ngót 1000
bức thư, cho bà biết sức khỏe và công việc hằng ngày của mình.
Khi mẹ mất rồi, Yersin tiếp tục gởi thư cho chị là bà Emilie.
Trong
thư nhiều khi đầy vẻ hài hước, như khi ông ở Hồng Kông viết cho mẹ:
“Con còn nhiều điều nữa muốn thưa với mẹ, nhưng có hai xác chết đang chờ
con. Họ muốn ra nghĩa địa cho sớm. Tạm biệt mẹ thân yêu. Mẹ rửa tay sau
khi đọc thư này kẻo bị lây dịch hạch, mẹ nhé.”
Yersin nhà nhân ái
Noel Bernard viết về A. Yersin có câu: “Ít có người không vụ lợi như Yersin. Khiêm tốn, giản dị, lịch sự”.
Ông
ăn mặc xoàng xĩnh bộ đồ kaki bạc màu cũ kỹ, áo khoác bốn khuy ba túi,
áo sơ-mi vải trắng hở cổ, quần kaki trên rộng dưới hẹp giặt sạch mà
không bao giờ ủi. Giày vải bố. Trong túi ngực bên trái đựng một cái đồng
hồ trái quít đeo bằng một sợi dây gai đỏ.
Năm
1920, ông đáp tàu Paul Lecat đi Marseille. Một phục vụ viên trẻ của tàu
không biết ông, cương quyết không cho ông vào phòng ăn. Nội qui của tàu
bắt buộc phải thắt cravate khi bước vào phòng khách. Yersin trở về
cabine. Sau đó, ông quay lại phòng ăn nói với phục vụ viên: “Chiếc
cravate nầy cậu có chấp nhận không?” Vừa nói ông vừa chỉ tay vào chỗ hở ở
cổ áo nơi ông vừa đút tấm huân chương “Bắc Đẩu Bội Tinh” .
Bữa ăn của ông thường đạm bạc.
Món rượu khai vị của ông thường chỉ là thứ nước có bột quinquina do ông tự chế. Nước uống đôi khi ông dùng nước lá sả mà ông bảo rằng dễ tiêu hoá. Có lần đi thám hiểm vùng cao nguyên, ông chỉ ăn cơm không trong hai tháng. Vì Nha Trang thường có bão táp, Yersin nghiên cứu về khí tượng, thời tiết để giúp ngư dân. Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu.
Tháng
11 năm 1939, đoán biết rằng một cơn bão lớn sẽ đổ vào bờ biển Nha
Trang, Yersin vi tập trung tất cả ngư dân xóm Cồn vào trong nhà mình.
Cơn bão biển dữ dội đêm ấy đã cuốn trôi nhiều nhà cửa xóm Cồn, nhưng bà
con vẫn an toàn.
Từ hôm ấy, Yersin được nhiều người dân xóm Cồn tặng cho biệt hiệu “người đã trị con sóng thần”.
Từ hôm ấy, Yersin được nhiều người dân xóm Cồn tặng cho biệt hiệu “người đã trị con sóng thần”.
Viết
về Yersin, và viện Pasteur Nha Trang, Henri Jacotot đã có những lời ca
ngợi tốt đẹp : “Trong những thời điểm quan trọng, Yersin luôn luôn sống
trong tình trạng báo động thường trực cả ngày lẫn đêm.” (Yersin et son
temps, H. Jacotot-1937)
Chẳng
những lo bảo vệ dân chúng tránh tai nạn bão lụt, Yersin còn luôn luôn
tỏ ra nhân ái đối với người dân ở Nha Trang, nên ông được người Việt yêu
chuộng và kính phục. Ông tự coi mình như một người dân trong làng, một
người có phần may mắn hơn ngườI khác, vì vậy ông thấy có bổn phận an ủi
và giúp đỡ thuốc men.
Một
hôm đi xe đạp từ nhà đến sở, ông bị một tài xế bất cẩn đụng ngã. Không
nói một lời nào, ông vội vã dựng xe đạp lên, rồi đi đến viện để băng bó,
không đá động gì đến người tài xế có lỗi.
Lần khác ông gặp người nông phu nằm ngủ trong xe bò dưới gốc cây bàng. Mặt trời lên cao, bóng mát thay chiều, ông bảo những người phụ tá đẩy xe bò vào chỗ mát.
Ông rất thương yêu trẻ con xóm Cồn, thường chiếu phim cho chúng xem. Trẻ con cũng thích ông chia kẹo hằng ngày cho chúng. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông bảo người giúp việc: “Đừng rầy đánh, người ta sợ.”
Lần khác ông gặp người nông phu nằm ngủ trong xe bò dưới gốc cây bàng. Mặt trời lên cao, bóng mát thay chiều, ông bảo những người phụ tá đẩy xe bò vào chỗ mát.
Ông rất thương yêu trẻ con xóm Cồn, thường chiếu phim cho chúng xem. Trẻ con cũng thích ông chia kẹo hằng ngày cho chúng. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông bảo người giúp việc: “Đừng rầy đánh, người ta sợ.”
Yersin rất nhẫn nại tử tế với những người cộng sự bản xứ, không bao giờ to tiếng, không bao giờ thị oai.
Ông Năm
Người dân Nha Trang gọi ông là Ông Năm vì theo ngạch nhà binh ông là Y sĩ Đại tá.
Ông sống thanh đạm độc thân, tiết chế xa hoa nhục dục.
Yersin
đến với người Việt Nam bằng một tấm lòng chân thật. Đó là chìa khoá kỳ
diệu đã mở cửa cho ông đi vào tình cảm của người Việt Nam.
Ông ra đi rất thanh thản, ngày 01 tháng 03 năm 1943 vào lúc 01 giờ sáng, vừa đúng tám mươi tuổi.
Một ngày trước khi từ giã cõi đời, ông còn ngồi trên ghế xích-đu dùng ống dòm đo mực thủy triều.
Mặc dầu có lời căn dặn của ông trong di chúc muốn được an táng đơn giản, đám táng của ông to lớn chưa từng thấy ở Việt Nam. Ngoài đại diện của chánh quyền còn vô số người Việt, người Pháp, người Chà, người Hoa, người Thượng. Dân chúng bày hương án hai bên đường từ Nha Trang lên tận Suối Dầu nơi an táng ông.
Một ngày trước khi từ giã cõi đời, ông còn ngồi trên ghế xích-đu dùng ống dòm đo mực thủy triều.
Mặc dầu có lời căn dặn của ông trong di chúc muốn được an táng đơn giản, đám táng của ông to lớn chưa từng thấy ở Việt Nam. Ngoài đại diện của chánh quyền còn vô số người Việt, người Pháp, người Chà, người Hoa, người Thượng. Dân chúng bày hương án hai bên đường từ Nha Trang lên tận Suối Dầu nơi an táng ông.
Trong
năm mươi bảy năm hoạt động khoa học (1886 – 1943) Yersin đã công bố năm
mươi lăm công trình và bốn mươi tác phẩm về y học, trong đó có mười ba
đề tài chuyên cứu về dịch hạch, và mười lăm đề tài chuyên về nông nghiệp
trồng cây quinquina và hévéa.
Người dân ViệtNam vẫn tiếp tục tôn thờ Yersin. Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang, vẫn còn giữ nguyên đường Yersin.
Bên
cạnh mộ Yersin có xây một cái miếu nhỏ đặt ảnh ông và hương án. Tại
chùa Linh Sơn và Long Tuyền có bàn thờ ông bên cạnh bàn thờ Phật, mặc
dầu lúc sanh thời, người dân Nha Trang không hề thấy Yersin bước chân
vào chùa hoặc nhà thờ.
Yersin mãi mãi đi vào lòng của người Việt Nam. Đó là đền Panthéon của Ông Năm và ông còn sống mãi mãi, vì đại văn hào Lỗ Tấn có nói : “Người chết chỉ thật là chết, khi không còn tồn tại trong lòng người sống nữa.” ” Người quá khứ mà hình ảnh còn tồn tại trong lòng người sống, thì chưa hẳn là chết.”
Yersin mãi mãi đi vào lòng của người Việt Nam. Đó là đền Panthéon của Ông Năm và ông còn sống mãi mãi, vì đại văn hào Lỗ Tấn có nói : “Người chết chỉ thật là chết, khi không còn tồn tại trong lòng người sống nữa.” ” Người quá khứ mà hình ảnh còn tồn tại trong lòng người sống, thì chưa hẳn là chết.”
Di chúc của Bác Sĩ Alexandre Yersin
***Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.***
***Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét