khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2018

Anne Phạm từ Balwyn High School đạt điểm kỳ thi Victorian Certificate of Education (VCE) 2017 gần như tuyệt đối là 99.95. Em là một trong trong tổng số 36 em có mức điểm Australian Tertiary Admission Rank (ATAR) tuyệt đối trên toàn tiểu bang Victoria và được cấp học bổng Melbourne Chancellor’s Scholarship để học tại Đại học Melbourne.







Tác giả bí ẩn của 'Thuyền viễn xứ' - Tác giả Trần Nguyễn Anh





Lúc sinh thời, Phạm Duy rất tâm đắc tác phẩm “Thuyền viễn xứ” mà ông phổ nhạc từ bài thơ của một thi sĩ ẩn danh - bút danh Huyền Chi. Huyền Chi là ai và cô đang ở đâu?

Tôi đã gặp Phạm Duy lúc ông về Việt Nam, trong ngôi nhà khá vắng người, ông nói: “Bài nào viết ra tôi đều thích cả, nhưng trong đó “Thuyền viễn xứ” là một trong những bài tôi thích nhất. Tiếc là tôi không gặp lại được tác giả bài thơ hay đó. Nó là kỷ niệm của một thời đất nước loạn ly, những kẻ xa quê lòng luôn hướng về quê cha đất tổ”.

Nói về thơ và nghệ thuật làm thơ, nhà thơ Huyền Chi cho biết: “Tôi thích tất cả các nhà thơ. Trong thơ, tôi rất trọng vần điệu. Không có bài nào của tôi không có điệu. Có người hỏi tôi thế nào là bài thơ hay?  Tôi nói rằng: ý thì nhiều mà không có vần điệu thì bài thơ vẫn phải là bài thơ hay. Trong thơ phải có nhạc. Không có vần điệu, thơ chỉ như câu văn ngắn, không phải thơ. Có vần điệu mới có nhạc, có thơ”.

Có một vài bài báo viết về tác giả Huyền Chi nhưng việc gặp được bà không hề dễ dàng bởi hầu như chưa bao giờ thấy Huyền Chi xuất hiện trong một sự kiện âm nhạc hay thơ văn nào mấy chục năm qua. Một lần tình cờ, một nghệ sĩ nhiếp ảnh là con người bạn của bà Huyền Chi nói với tôi về tác giả “Thuyền viễn xứ”: “Theo mình biết, cô Huyền Chi vẫn làm thơ, nhưng cô ấy không xuất bản”.

Nhờ có sự giới thiệu, tôi đã tìm gặp được tác giả bài thơ đã trở thành lời nhạc đi vào lòng nhiều thế hệ, nhưng vừa gặp cô đã bảo: “Tôi chẳng có gì mà kể cả đâu”. Rồi câu chuyện trở nên nóng hơn xung quanh tập thơ duy nhất ấy. Cô bảo: “Từ năm 1975 tới nay tôi thất lạc tập thơ của mình và cũng chẳng hy vọng một ngày lại nhìn thấy nó. Sau khi chồng tôi mất, tôi buồn lắm, các con tôi bảo tôi nên chơi facebook. Tôi vào thế giới ảo, không lấy tên thật, nhưng có đưa tác phẩm của mình lên, ấy thế mà một số bạn đọc nhận ra tôi và họ từ Mỹ gửi tặng tôi một bản phô tô tập thơ của mình. Tôi không còn gì sung sướng hơn khi hơn 40 năm mới nhìn lại tác phẩm tâm huyết của cuộc đời mình, dù chỉ là bản phô tô từ giấy in rất xấu thời đó”.

Tác giả Huyền Chi năm nay đã 84 tuổi. Cô vẫn dạy Anh văn, một cách để rèn luyện trí nhớ, theo cách cô nói. Cô vẫn làm thơ, viết hồi ký, nhưng không phải để in mà để ghi lại những nỗi lòng mình. Cầm tập thơ của mình trên tay, cô lật giở cho tôi đến trang thơ in bài “Thuyền viễn xứ”. Giọng đọc của cô du dương, vần điệu, nhưng rất khúc chiết, mạnh mẽ:

Lên khơi, sương khói một chiều
Thùy - dương rũ bến tiêu - điều ven sông
Lơ - thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha dáng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà - Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
                          
(Thuyền viễn xứ)

“Những năm 1951-1952, lúc ấy cô làm thư ký tòa soạn mục thơ cho một tờ báo, cô vừa làm vừa học. Lúc đó cô có in tập thơ đầu tiên. Thình lình ông Phạm Duy vào. Ông ấy quen bà chủ nhà in, bà ấy giới thiệu. Cô mới đưa cho ông tập thơ vừa in xong. Ông Duy mới nói cô viết ký tặng cho ông ấy và sau này ông thích ông sẽ xin phép phổ nhạc. Đó cũng là lần gặp gỡ duy nhất giữa hai chúng tôi”. Tác giả “Thuyền viễn xứ” kể về những ngày tháng lúc cô mới 18 tuổi và tự bỏ tiền ra in tập thơ đầu tiên.

Một nhà thơ nữ mới 18 tuổi đã in thơ, phụ trách mục thơ của một tờ báo là chuyện khá hiếm vào những năm 1950. Thi sĩ Huyền Chi yêu thơ từ nhỏ: “7 tuổi đã biết chép thơ rồi” – cô nói. Bố cô làm giám đốc hỏa xa 3 tỉnh, ông tên Hồ Văn Ánh. Cô quê gốc Bắc Ninh, sinh năm 1934, khi ấy ông cụ do công việc duy trì đường hỏa xa, ông đi từ Bắc vào Nam. Đi tỉnh này mấy năm, qua tỉnh khác mấy năm. Sinh cô ở Sài Gòn mà gia đình thì ở Phan Thiết. Ông cụ yêu thơ nên đặt tên các con là Nghiên, Thư. Đến cô con gái nhỏ này ông đặt tên là Hồ Thị Ngọc Bút. Cô bảo: “Khi làm thơ, ban đầu tôi lấy bút danh Khánh Ngọc, sau đó lấy bút danh Huyền Chi”.

Cuộc đời gia đình cô ly tán như biết bao gia đình thời kỳ chống Pháp. Cô kể: “Cha cô về Bắc và chết ngoài Bắc năm 1947. Ngoài Bắc khi ấy còn bà nội ở Bắc Ninh. Bà hấp hối, kêu cả nhà về. Lúc đó anh của cô bị bệnh, má cô nói là để về sau, để chồng ra Bắc trước. Ngoài Bắc có chiến sự giữa Việt Minh và Pháp, cha không vào Nam được. Năm 1954 cha viết thư vào bảo “Mình (má cô) phải về, con thì đứa nào về được thì về”. Lúc đó mình má cô về Phù Lưu (Bắc Ninh). Sau bà cụ mất trước, bà cụ mất sau. Còn cô thì ở lại Sài Gòn, cha mẹ mất mà không nhìn thấy mặt”.

Về bài thơ, tác giả cho tâm sự: “Cô buồn mà viết bài đó, trước khi sông Gianh chia đôi đất nước. Cô viết khoảng năm 1951-1952. Đà Giang là mình tưởng tượng thôi, chứ lúc viết thì không ra Bắc được. Hồi đó chính trị khó khăn nên mình không nói rõ hết mọi sự về thân phận của cô là người gốc Bắc”.

“Có người nghe bài hát của Phạm Duy phổ nhạc, hỏi rằng “cố lý” có phải một địa danh ở Bắc không, xin thưa, cố lý chỉ có nghĩa là quê xa thôi. Phù Lưu, Bắc Ninh mới là quê của tôi. Lúc nhỏ vì bố làm nghề hỏa xa nên năm nào cũng được ra Bắc nghỉ hè, về quê. Trong bài hát có hình ảnh mái đầu bạc là mô tả mẹ của cô”.

“Sáu mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại hướng làng nẻo xa
Lệ nhòa như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết mẹ già mong con”.
                                             
(Thuyền viễn xứ)

Cô Huyền Chi trầm ngâm: “Sau khi nhận thư của bố tôi bảo má tôi phải ra Bắc, bà đã bỏ sạp vải trong chợ Bến Thành ra với chồng, kể từ đó, tôi một thân một mình ở Sài Gòn, thương cha, nhớ mẹ, một mình lủi thủi nơi đất khách quê người. Tôi lập gia đình và bỏ luôn nghiệp làm thơ vì phải bận rộn cùng chồng nuôi 7 đứa con dại”.

Năm 1954 thi sĩ lập gia đình khi mới đôi mươi. Chồng nhà giáo, đông con, phải giúp chồng làm kinh tế. Cô mở hiệu sách bán và dạy Anh văn.

Trong cuộc đời ta, ai cũng muốn trở thành người nổi tiếng và nổi tiếng đôi khi cũng có nhiều cái lợi. Huyền Chi không nghĩ như vậy. Cô bảo: “Tôi rất sợ hư danh, tôi không muốn nổi tiếng. Sau khi Phạm Duy phổ nhạc, bài hát rất nổi tiếng, những bản in của bài hát được bán khắp nơi, ai cũng hỏi Huyền Chi là ai vậy? tôi không bao giờ xuất hiện và tôi cũng không nhận một đồng tác quyền nào từ bài hát này trước 1975, mặc dù tôi biết rằng số tiền nhuận bút khi ấy rất lớn. Phạm Duy không tìm được tôi, nên trên nhiều bản in của bài hát ấy có ghi dòng chữ Phạm Duy nhắn gửi: Huyền Chi cô ở đâu?”.

Tôi nói với cô Huyền Chi rằng khi Phạm Duy còn sống, trong vài lần trò chuyện cùng tôi, ông cũng nói rằng bài “Thuyền viễn xứ” là một trong những bài hát mà ông viết ra rất nhanh, cảm xúc và rất yêu thích. Tiếc rằng không gặp lại được tác giả bài thơ.

Cô Huyền Chi tủm tỉm cười, gật đầu bảo: “Tôi biết nhạc sĩ Phạm Duy đi Mỹ rồi trở về định cư ở Việt Nam. Thông qua một người bạn, ông ấy viết thư cho tôi, bày tỏ ý định muốn gặp lại tôi. Nhận được thư, đọc xong, tôi xé quẳng vào thùng rác. Tôi không muốn gặp ông ấy, hay đúng hơn là tôi không muốn trở thành một người nổi tiếng làm gì”.

Cuộc đời của thi sĩ Huyền Chi thật không dễ dàng. Sau khi lấy chồng, cô phải làm đủ thứ việc để nuôi con và không làm thơ nữa. Sau năm 1975, cô được ông anh cho một ít ruộng để làm, mưu sinh, bởi khi ấy không ai cho dạy thêm, dạy kèm. Cô bảo: “Vì chúng tôi có ruộng nên không vào diện được cấp gạo. Tiếng có ruộng mà có ai biết cấy trồng gì đâu, trong nhà có lúc không còn gì ăn. May rồi cuộc sống cũng dần thay đổi, tôi lại được đi dạy Anh văn ở các trung tâm, từ đó cuộc sống dần qua lúc cùng cực”.

Tuổi 84, cô Huyền Chi vẫn đọc, vẫn viết, như thỏa mãn niềm đam mê đã bị bỏ lỡ một thời. Cô bảo: “Tôi viết thơ và đăng trên facebook của mình, nhờ thế mà tôi tìm được đứa cháu bên Pháp hơn 40 năm không gặp. Nó về Việt Nam nhiều lần tìm tôi, đăng báo tìm tôi mà không gặp nhau. Nhờ mò mẫm trên mạng mà nó tìm ra tôi, cũng nhờ tôi đăng lại bài “Thuyền viễn xứ” trên facebook, nhiều người vào bình luận mà nó tìm được tôi”.

Người cháu ấy là con anh trai của cô Huyền Chi. Người anh trai đã mất từ lâu, đứa cháu chỉ biết thông tin về cô của mình chính là tác giả bài thơ “Thuyền viễn xứ”, cứ thế mà nó mò mẫm tìm cô. Lúc tôi tới gặp cô, người cháu cũng đang ở Việt Nam. Cô Huyền Chi vui vẻ bảo: “Cháu tôi đã có cả quốc tịch Pháp và Việt Nam, nó rất hay về Việt Nam thăm, ở cùng tôi. Tôi rất vui vì nhờ bài thơ Thuyền viễn xứ mà cô cháu tôi đã tìm được nhau sau gần nửa thế kỷ thất lạc”.

Tập thơ của tác giả Huyền Chi có tên “Cởi mở” do Nxb Xây Dựng, Huế in. Tập gồm 24 bài thơ, do tác giả tự xuất bản, tự biên tập và tự mang đi bán. “Lúc đó thơ người ta nói về tình thôi. Lúc ấy cô viết tập thơ này không có bài nào là thơ tình, một phần vì chưa yêu, một phần vì muốn làm những vấn đề thời sự” - nhà thơ tiết lộ.

Cô ở trong một nhóm thơ văn nhạc gồm những người trẻ, cô làm phó hội thơ, mọi người gửi thơ tới, cô sửa để đăng. Sau khi lấy chồng vẫn viết thơ và truyện ngắn một thời gian nữa, rồi lo việc gia đình nên bỏ hẳn sáng tác.

Hơn 40 năm mới nhìn thấy lại tập thơ của mình, nhà thơ Huyền Chi bùi ngùi: “Thời đó chỉ dám in 500 cuốn, không dám in nhiều. Cô làm cô tự in tự bán. Lúc đầu bán chậm, sau lần lần người ta biết họ mua, họ tìm cô xin chữ ký, cô sợ mình thành người nổi tiếng nên lánh đi, không gặp độc giả nữa”.

Tập “Cởi mở” được viết trong thời điểm mà cô gọi là “thời kỳ máu lửa”: “Người Việt Nam ta bắt đầu đứng lên công khai mà chống Pháp, cô ủng hộ phong trào dân ta nổi lên chống Pháp, lúc đó phong trào đang máu lửa. Người Bắc vào Nam nhiều, nên người ta rất thích thơ của cô. Thời chiến tranh mình không thể nói thẳng ra, phải mượn hình ảnh để nói, chẳng hạn trong bài “Thuyền viễn xứ” có câu: Ngàn câu hát buổi quân hành/ Dặm trường vó ngựa đăng - trình nẻo xưa”.





Ngày đầu ở Mỹ - Tác giả Trần Hoài Thư




Cuối cùng, cuộc đình công thất bại. Cả đám người Việt chúng tôi bị đuổi ra khỏi hãng ngay sau khi Lương mang kiến nghị lên gặp văn phòng giám đốc. Tên chủ hãng chỉ liếc qua tờ giấy, rồi nhún vai: “Được. Bọn mày về lại chỗ làm việc. Tao sẽ trả lời ngay sau giờ ăn trưa”. Gương mặt của tên da trắng vẫn lạnh lùng. Chúng tôi trở lại bàn làm việc, chờ đợi. Trên bàn là những dụng cụ lắp ráp nằm vương vãi. Không ai nói chuyện với ai. Chúng tôi rõ ràng đã linh cảm được điềm không tốt. Mới hôm qua, cả bọn hăm hở như một toán quân nắm phần chiến thắng, cười nói huyên thuyên. “Nó bóc lột mình, thì mình phải đoàn kết lại, phải không anh chị em?” “Phải đó. Lương $3.75 một giờ còn thua lương tối thiểu. Phải nói cho nó biết là bọn mình không phải con vật…” “Sức mấy mà nó không nghe lời yêu cầu của mình. Tôi nói cho bà con nghe, nó mà thắp đuốc đi tìm cũng không bao giờ gặp được những người làm việc siêng năng cần mẫn như bọn mình đâu.” Bao nhiêu ý kiến, phát biểu đầy lạc quan, phấn khởi như thể ngày mai, lương sẽ tăng lên $4.00, bây giờ trở thành ảm đạm. Lương, tay đại diện thì im lặng. Vâng, mọi sự đâu có phải dễ dàng như chúng tôi tưởng. Bởi vậy, tại sao lại có nghiệp đoàn, có những người đội tuyết giá, đứng giữa mưa gió để cầm bảng: Đình công. Đâu có phải chỉ ký tên vào bản kiến nghị, rồi đưa lên chủ…Đâu có phải nghĩ rằng, mình là một cõi. Không có mình, hãng sẽ phải đóng cửa ngay lập tức.

Quả vậy, sau giờ ăn trưa, chủ loan báo, nhóm chúng tôi phải ra về tức khắc. Trời ơi, đúng là xứ tư bản, chủ là vua, là chúa. Đoàn kết gây sức mạnh. Cái câu tục ngữ nào coi bộ không đúng trong lúc này.

Cuộc đình công là một trong những bài học mà tôi gặp phải trong những tháng năm đầu tiên ở xứ sở này. Một bài học về những người mất tiếng nói. Muốn chửi nhưng cũng không biết chữ để mà chửi. Muốn kêu cảnh sát cũng sợ phải nói tiếng người. Tôi đã viết một lá thư gửi về thằng bạn thân của tôi ở quê nhà, kể rõ những sự thật khi nó hỏi tôi về ý định của nó muốn qua Mỹ. Nhưng nó vẫn không tin tôi. Nó nghĩ tôi ích kỷ. Được, nó sẽ biết, và chừng ấy nó sẽ đừng hối hận. Nếu nghĩ đến một điều không thể tìm thấy ở quê nhà, không phải là tiền bạc, xe hơi nhà lầu, không phải là những con đường xa lộ thênh thang hay những ngôi nhà chọc trời… Nếu nghĩ đến hai chữ tương lai cho con cháu, đến một cái gì quí báu nhất mà loài người này đã đổ bao nhiêu xương máu để gây dựng, thì hãy nên đi. Bằng không, thì đừng… Tôi khuyên nó như thế. Để nó còn chuẩn bị tinh thần, để khỏi tiếc nuối cái cơ nghiệp đồ sộ mà nó gây dựng, để khỏi bị mang mặc cảm một người trí thức phải trở thành một gã cu li, hốt rác…
 
Trở về khu slum, bước trên những vỉa hè dơ bẩn, giữa những vách tường chằng chịt chữ viết, tôi nghe lòng trĩu nặng nỗi buồn. Lũ chim bồ câu bay rợp trên những dãy lầu bỏ hoang. Chiếc xe trolley nghiến bánh trên đường sắt, và những tia lửa xẹt từ những sợi dây cable trên cần trục. Đây là một khu mà cả thành phố này ai cũng kinh sợ. Tội ác. Drug. Ngay cả cảnh sát cũng ít lai vãng. Đa số những người tị nạn không thân nhân đều được hội bảo trợ tống về đây, ở trong những apartment với giá tiền thuê rẽ mạt. Và chúng tôi đã biến đổi khu slum thành một khu Việt Nam nho nhỏ. Người này san sẻ với người kia về kinh nghiệm đã học được. Chúng tôi cùng rủ nhau đợi xe bus vào lúc ba giờ sáng để về các nông trại xa để hái táo lê hay cherry, và nhận tiền mặt. Chúng tôi cùng kéo nhau đi điền đơn xin việc tại các hãng xưởng hay làm chân lau chùi vệ sinh sau giờ làm việc. Những người đàn bà thì mách với nhau về nơi nào bán đồ cũ, hay đồ đại hạ giá. Con chúng tôi được gởi đến một ngôi trường mà 99% là học trò Mỹ đen. Không ai cho chúng tôi biết về những chương trình giúp đỡ dân tị nạn, hay chương trình học vấn. Chỉ có chúng tôi, người này biết nói với người khác hay. Chính vì sự san sẻ này mà tôi mới biết tại một ngôi trường đại học cộng đồng của thành phố có một lớp dạy Anh ngữ miễn phí. Và chúng tôi cùng rủ nhau tìm đến để ghi danh.

Ngôi trường nằm bên cạnh City Hall. Buổi sáng, Khanh, Lương, cô Huệ và tôi theo xe điện ngầm đến trường. Bà giáo phụ trách chương trình ra dấu bảo cả bọn vào văn phòng, rồi phát đơn, phát bài để trắc nghiệm. Những câu hỏi trắc nghiệm về văn phạm, toán học v.v…Tất cả đối với tôi đã quá quen, lý do tôi đã học trong những năm trung học và đại học ở quê nhà. Tôi làm xong trước giờ ấn định rất lâu. Bà giáo chấm bài ngay tại chỗ. Bà gọi tôi vào khen ngợi, nói với tôi là mày không cần học lớp ESL, mà học thẳng lớp English 100, có nghĩa là lớp được tính credit Bà còn hỏi tôi về cái ngành học tôi ước muốn. Tôi trả lời tôi không biết. Tôi chỉ muốn học tiếng Anh, để hiểu những gì căn bản nhất mà người bản xứ nói. Bà ta khăng khăng, mày có trình độ mà, bài trắc nghiệm của mày đúng hoàn toàn mà. Mày muốn học ngành điện toán không? Tôi không biết tí ti gì về điện toán nhưng vẫn gật đầu. Xin bà giúp đỡ. Cám ơn bà. Tôi nghĩ công việc chọn nghề là việc của bà. Ai ai cũng phải có một nghề để theo đuổi.

Sau đó bà hướng dẫn tôi lên lớp học. Tôi ngu ngơ như một con nai lạc. Trường quá rộng. Sinh viên qua lại dập dìu. Tôi không dám mong trở thành một phần tử trong thế giới này. Lại nữa, số tuổi quá 40 của tôi quá già để nghĩ đến một sự bắt đầu. Tôi chỉ muốn học để có thể nghe và hiểu, thế thôi. Nhưng bà giáo lại đẩy tôi vào lớp. Trời ơi, mấy chục sinh viên bản xứ quay lại nhìn tôi chăm chú. Ông giáo sư ngồi ở giữa một vòng tròn sinh viên. Tôi kéo ghế chen vào. Ông giáo sư bắt sinh viên giới thiệu về mình. Tôi hoàn toàn không hiểu họ nói gì nữa. Và tôi xấu hổ bỏ lớp. Tôi chạy xuống văn phòng tìm bà giáo cố vấn chương trình. Tôi năn nỉ xin bà xuống lớp thấp nhất. Bà giáo cười. Lần đầu tiên tao mới thấy một người đòi xuống lớp thay vì lên lớp. Mày không biết được học lớp English 100 này là một điều hãnh diện hay sao?
 
Từ buổi ấy, Lương, Khanh, Huệ và tôi cắp sắch đến trường. Tên học trò trung niên, mang cặp kính, mang theo nỗi buồn của một đứa con xa xứ, đến trường. Ngôn ngữ cứng ngắc trên hai hàm răng. Chử nghĩa mờ nhạt trên đôi mắt yếu. Để buổi chiều cầm tấm giẽ, cái chổi, đẩy máy hút bụi, rồi áp vào khung kính nhìn về phía núi đồi hoàng hôn, để nghĩ đến một con ngựa lạc bầy mà buồn muốn khóc. Từ thưở cha sinh mẹ đẻ đến bây giờ, tôi chưa biết thế nào là vào trong nhà vệ sinh phụ nữ để lục lọi từng miếng băng vệ sinh để bỏ vào thùng rác hay lấy giấy lau sạch bàn cầu. Và những lời đay nghiến, những cái nhìn diều hâu khi con mẹ da trắng đi khám cao ốc. Tôi xin nói thật, không che giấu, không úp mở. Tôi đang mở đôi mắt lớn để nhìn đời. Đời dạy tôi, tôi xin viết lại cho con cháu tôi. Tôi đẩy thùng rác, vừa đẩy vừa nghĩ đến bài học. Tôi ghi từng chữ Anh, chữ Mỹ trên tấm cạt, thỉnh thoảng, lấy ra nhìn, cố gắng nhập tâm. Đó, hỡi thằng bạn phương xa, mày mà biết, mày sẽ không bao giờ qua xứ Mỹ này. Mày mà biết, khi tao gọi điện thoại từ trường về nhà thăm chừng thằng con 6 tuổi ở một mình bất hợp pháp, không nghe tiếng nó trả lời, là cả tim tao cơ chừng muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Học. Học. Không học thì làm gì bây giờ. Những tiếng cười ngạo mạn của một người nào đó, khi mình phát âm sai. Con mẹ chủ nhà không buồn ngẩng đầu nhìn đám người tị nạn khi họ đến than phiền về heat về gaz. Những cái nhún vai khinh bỉ trong xe điện ngầm, xe bus, hay trong hãng. Tôi nói với lòng mình, can đảm lên, như ngày xưa mình từng là một người lính đánh giặc miền Nam.


o0o


Bây giờ, tôi đang trở lại khu xóm cũ, sau hơn 15 năm xa cách. Vẫn những con bồ câu hoang đậu dưới gầm cầu xe lửa. Vẫn những vách tường dày đặc chữ viết bậy. Vẫn những ngôi nhà hoang. Vẫn những sân nhà phủ ngập cỏ dại và rác rến. Vẫn con đường qua xóm, với hàng điện trời mà mỗi khi chiếc xe trolley chạy qua, là tiếng kêu leng keng như một tấu khúc vui trong ngày. Có điều khác chăng là lớp người tiền phong như chúng tôi đã không còn nữa, mà để thay vào đó là những người Miên hay Lào. Vâng, như người Do Thái của một thời, đã bỏ khu này mà đi, rồi đến người Mỹ đen, rồi người tị nạn Việt Nam…Lương là kỹ sư cơ khí. Huệ đã trở thành dược sĩ. Cô Vân đã dọn nhà sang một khu khác, an toàn hơn, và hai đứa con của cô đang học đại học. Anh Phú và tôi có con sắp ra Bác sĩ. Ông Tâm đã qua đời. Bà Căn cũng về với Chúa. Một thế hệ mới đã vươn lên từ sự lao khổ lận đận của thế hệ tiền phong. Không phải đi khai mỏ vàng, hoặc đi tìm đất mới. Nhưng phải tự dìu dắt trên chính một nơi mà mình chẳng bao giờ lựa chọn, để mong con cháu nên người.


Ăn tô phở giá 35 đô la Mỹ ở Hà Nội - Tác giả Alastair Leithead




Trong lúc Việt Nam Cộng sản đang ngày càng áp dụng những cách làm của chủ nghĩa tư bản, khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh.
 
Tôi đã từng có những ngày kỳ quặc, nhưng ngày Chủ Nhật đó ở Hà Nội chắc chắn là ngày rất kỳ quặc.

Việc đầu tiên tôi làm trong ngày là ngắm một người được bảo quản, trông như bức tượng sáp, sau đó là nếm phở đắt nhất ở Việt Nam- rồi xem chiếc xe hơi đắt giá nhất.
   
Tôi cũng tới buổi gặp ra mắt của câu lạc bộ những người chơi xe Harley Davison trước khi nếm mùi thực tế bằng cách ngồi khoanh chân trên sàn một nhà hàng và nhắp bia hơi.
   
'Bác Hồ Chí Minh', cha già dân tộc của nước Việt Nam này đã đề nghị được hỏa táng để không phải nằm lạnh giữa một lăng mộ tối đèn, bao quanh bởi lính bảo vệ luôn thúc giục đoàn khách vào thăm đi cho mau trong yên lặng, tay bỏ khỏi túi, mũ gỡ khỏi đầu.
   
Hàng trăm người Việt Nam và cả khách du lịch thường xuyên xếp hàng để vào viếng ông, trong hình dáng giống như khi ông vừa qua đời cách đây hơn 40 năm.
Đảng Cộng sản ở đây không muốn thay đổi nhưng với các nhà chọc trời mọc lên ở khu lân cận lăng cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay đổi đang ập tới với ông.
 
Khách giàu
 
Địa điểm tiếp theo của tôi là để thưởng thức phở, món súp tiếp đạm cho quốc gia thường được bán với giá một đô la.
   
Nhưng chúng tôi không đến những quán phở thường mà tới nếm thử loại phở đắt nhất nước với giá 35 đô la một tô.
   
Hai chiếc xe Porsche hai cầu đỗ bên ngoài quán. Tôi còn không biết là Porsche chế tạo cả xe hai cầu.
Ông chủ quán nói với chúng tôi về chất lượng thịt bò Nhật, độ sạch sẽ của bếp nấu và số tiền mà những người giàu sẵn sàng bỏ ra để húp món phở đắt nhất Việt Nam.
   
Một thực khách thú nhận ông vừa ăn món phở đặc biệt của nhà hàng và gần như cảm thấy có lỗi khi nói với tôi ông làm cho chính phủ.
Chúng tôi cũng nhận được ánh mắt nghi ngờ của một Ủy viên Trung ương Đảng bước nhanh ra khỏi cửa và chui vào chiếc Mercedes trong lúc người trông nom tôi thử món phở mà cô nói không tới mức 35 đô la ngon hơn phở cô thường ăn.
 
Đồng sàng dị mộng
 
Vâng, người trông nom chúng tôi...
 
"Đảng" cũng thích kiểm soát. Nhưng đây không phải là nước cộng sản mà chúng ta tưởng tượng ra từ những năm 1950-1960.
   
Dĩ nhiên cờ đỏ treo ở mọi góc phố nhưng hình búa liềm tung bay trên đường đối diện với một cửa hiệu Chanel trong khi các áp phích tuyên truyền nằm ngay gần cửa hàng Louis Vuitton.
Những biểu tượng của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản - đồng sàng dị mộng.
   
Ngay cả những người trông nom chúng tôi cũng cười và nhún vai khi được hỏi ý thức hệ và thực tế có thể dung hòa như thế nào.
   
Họ tỏ ra thẳng thắn và trung thực về những điều quái dị. Ít nhất tôi từng nghĩ họ sẽ phản ứng xã giao và nghiêm nghị, thậm chí đầy đức tin.
   
Còn ông chủ khách sạn đưa ra cách lý giải riêng: "Vỏ là cộng sản nhưng ruột là tư bản".
   
Chúng tôi đã thấy lớp vỏ đó - một tập thể các 'đồng chí' tại Đại hội Đảng nhất loạt đồng tình về đội ngũ lãnh đạo mới.
   
"Có ai phản đối không?" - vị chủ tọa hỏi với cái nhìn lướt qua.
   
Dĩ nhiên là không. Chất vấn hệ thống là điều không thể dung thứ.
Nhưng rồi tất cả những đấu đá, tranh cãi diễn ra sau những cánh cửa đóng kín.
Đoàn kết bề ngoài là cách họ thể hiện Sức mạnh.
 
Hột xoàn
 
Và chúng tôi đã nhìn thấy phần 'ruột' trong cuộc gặp với một trong những người giàu nhất nước.
   
Chúng tôi được nghe về dự án nhiều triệu đô la xây tòa nhà cao nhất miền Trung, khách sạn ngoài bờ biển của ông và khu biệt thự cao cấp giá hai triệu đô la mỗi căn, các khu công nghiệp và mục tiêu kiếm nhiều tiền hơn nữa qua việc thay thế bỏ hãng xưởng may áo sơ mi và giày để xây nhà máy làm đồ điện tử công nghệ cao.
   
"Nếu Đảng đi con đường khác với người dân Việt Nam thì họ không thể sống sót được," ông dũng cảm nói.
Đó là sự tự tin từ đến từ tiền "của" [từ này, đánh máy sai, thành "cải", trong bài viết trên BBC. NQT]
Và thanh niên 26 tuổi tràn đầy tự tin cũng cho tôi xem chiếc xe Rolls-Royce Phantom được chế tạo theo đơn đặt hàng đang hợm hĩnh phô kính trước mặt những người bán hàng rong đội nón lá.
   
Người anh toát ra toàn kim hoàn và hột xoàn. Khi là chủ cửa hàng bán xe đắt tiền như thế này, người ta có thể dùng điện thoại giát vàng và đồng hồ gắn kim cương.
   
Thế còn câu lạc bộ chơi xe Harley Davidson? "Ông sẽ không bao giờ nhìn thấy nhiều xe hạng sang như thế này ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới," một trong những người nước ngoài là thành viên câu lạc bộ nói với tôi.
   
Và đây chắc chắn là thói quen đắt giá. Những người chơi xe thường có máu nổi loạn.
Ở một góc độ nào đó, tôi nghĩ là họ cũng muốn tỏ ra như vậy nhưng động cơ của chiếc xe họ lái cũng chỉ gầm rú để toát lên mùi tiền trong cảnh xung quanh là người dân nghèo ở Hà Nội.
   
Tôi đã trải nghiệm một ngày với những người giàu có khi ở đây còn hàng triệu người không xu dính túi.
   
Sau cơn phấn khích, tôi ngồi uống nước với một nhà báo địa phương.
   
Cô kể về sự trấn áp, những cuộc gọi lúc nửa đêm, điện thoại bị nghe lén và những cảnh bị bám đuôi.
   
Những người dám thách thức chính quyền thường bị bỏ tù.
Lớp vỏ vẫn còn rất cứng. Những nguyên tắc được lưu giữ trong tủ kính ở Lăng ông Hồ vẫn là phần chủ đạo.
   
Những tài năng ham muốn kiếm tiền đang cùng sống với hệ thống chính trị. Nhưng khi đồng tiền đổ vào, nền kinh tế nóng lên, thay đổi là điều không thể cản được.
Đảng có thể giữ phần chèo lái và chỉ đạo, nhưng phải có bàn tay vững chắc lắm thì mới có thể chặn được thủy triều.
 
 
 

MA TÙ vs MA TỰ DO







Hàng trăm vây cá mập trên nóc tòa nhà cơ quan thương mại thuộc đại sứ quán CSVN tại Chile







Các báo Chile đưa tin, trên mái toàn nhà của cơ quan thương mại thuộc Đại sứ quán Việt Nam tại Chile người ta nhìn thấy có hàng trăm tấm vây cá mập phơi trên đó.

Những cư dân xung quanh cảm thấy khó chịu vị mùi tanh tưởi hôi thối bốc ra từ tòa nhà này và họ đã để ý theo dõi và phát hiện ra sự việc. Việc phơi vây cá mập được cho là bắt đầu từ 13/1/2018, ban đầu chỉ có một ít, nhưng số lượng vây cá mập ngày càng tăng thêm, trong đó có cả những nhát cắt còn tươi mới.

Tờ báo cho hay, tòa nhà có địa chỉ tại Eliodoro Yáñez 2897. Sau khi vụ việc bị phanh phui, các nhà báo đã gọi điện thoại cho cơ quan Ngoại Giao Việt Nam để yêu cầu giải thích nhưng không liên lạc được hoặc không nhận được câu trả lời.

Giới chức địa phương và các cơ quan bảo vệ động vật đã vào cuộc. Việc đánh bắt cá mập đã bị cấm ở quốc gia này từ năm 2012 nhưng việc khai thác trộm vẫn xảy ra và Việt Nam, Trung Quốc là kênh tiêu thụ chính sản phẩm này.

Cá mập bị những kẻ săn trộm bắt, kéo lên các con thuyền ở ngoài khơi, rồi dùng cưa máy, cưa vây của chúng sau đó ném con vật trong tình trạng mất hết vây xuống biển. Vì món súp đắt nhất thế giới này mà người ta đã sát hạt cả triệu con cá mập mỗi năm và khiên loài cá này có nguy cơ tiệt chủng.

Cá mập hiện là loài vật được bảo vệ. Các nhà khoa học cho rằng, chúng giúp giữ cân bằng sinh thái biển.

Ngoài cá mập, nhiều loại động vật hoang dã quý hiếm khác cũng trên đà tuyệt chủng bởi sự sát hại và buôn bán của Việt Nam và Trung Quốc. Hai quốc gia này trong những năm gần đây đã ‘tấn công’ mạnh mã vào các quốc gia châu Phi, sát hại và buôn bán các sản phẩm từ tê giác, hổ báo, voi và nhiều loại động vật khác.

Nhiều đường dây buôn lậu đã bị phá vỡ, hàng tấn ngà voi đã bị bắt giữ và ‘tiêu hủy’ (theo xác nhận của Việt Nam).

Trong năm 2008 vụ việc quan chức ngoại giao Việt Nam buôn sừng tê giác từng gây ầm ĩ báo chí trong nước và quốc tế khi các nhà báo Nam Phi rình và chụp được một số giao dịch diễn ra ngay cổng đại sứ quán Việt Nam tại quốc gia này.


THANH Xin Lỗi Bác TRỌNG - Tác giả Người Buôn Gió







Du Ca Saigon đồng ca Trả Lại Tôi Tuổi Trẻ, nhạc Phạm Duy







Trần Huân hát Nhìn Về Vận Nước







Công khai hoá lực lượng tác chiến không gian mạng







Saigon của những người buôn gánh bán bưng, lợi tức đầu người $2.4K US dollars mỗi năm(?)







Hàng Không Mẫu Hạm Xứ Dẫy Chết Sắp Ghé Thăm Xứ Thiên Đường







Chợ lao động Hà Nội: người lao động thu nhập $2.4K dollars một năm?







Gương vỡ tự lành







Giã sử được làm chứng, Lm Nguyễn Đình Thục sẽ nói gì trước phiên tòa xử Hoàng Đức Binh và Nguyễn Nam Phong, ngày 25/1/2018?







GÁI ĐĨ GIÀ MỒM: China says US warship 'violated' its sovereignty - Source AFP




Beijing on Saturday said it had dispatched a warship to drive away a US missile destroyer which had "violated" its sovereignty by sailing close to a shoal in the disputed South China Sea.
The USS Hopper sailed within 12 nautical miles of Huangyan Island on the night of January 17 without alerting Beijing, the foreign ministry said, referring to the shoal by its Chinese name.
Also known as Scarborough Shoal, the ring of reefs lies about 230 kilometres (140 miles) from the Philippines in the South China Sea, where Beijing's claims are hotly contested by other nations.
The US vessel "violated China's sovereignty and security interests", and put the safety of nearby Chinese vessels "under grave threat", foreign ministry spokesman Lu Kang said.
China's defence ministry said in a separate statement that a Chinese frigate "immediately took actions to identify and verify the US ship and drove it away by warning" it.
The USS Hopper recently entered the US Navy's 7th Fleet area of operations, where the ship is on an "independent deployment", according to a statement released earlier this month on the Navy's website.
Its mission in Asia involves "security cooperation, building partner capacity, and performing routine operations within the area".
News of the encounter follows Friday's release of a new US national defence strategy that says America is facing "growing threats" from China and Russia.
China is a "strategic competitor using predatory economics to intimidate its neighbors while militarizing features in the South China Sea", the document says.
China's defence ministry dismissed those claims on Saturday, saying "the situation in the South China Sea has steadily stabilised," in comments attributed to spokesman Wu Qian.
But it added, "the United States has repeatedly sent warships illegally into the adjacent waters of the South China Sea islands and reefs."
Beijing asserts sovereignty over almost all of the resource-rich South China Sea despite rival claims from Southeast Asian neighbours and has rapidly built reefs into artificial islands capable of hosting military planes.
China seized Scarborough Shoal in 2012 after a brief stand-off with the Philippine navy. The shoal is also claimed by Taiwan.
 
 

Hòa Hợp Hòa Giải (?): Nam và Bắc Hàn sẽ diễn hành dưới 1 lá cờ tại Thế Vận Hội Mùa Đông PyeongChang tại Nam Hàn







Dân Oan: Ba lần mất đất vì bạo quyền







Chó: Bạn Thân giúp người tàn tật







Việt Kiều Mỹ chở củi (chocolate) về rừng (xứ thiên đường)







Á Châu Trong Tuần , 19/1/2018







VN Tuần Qua, 20/1/2018







Nhạc về Huế: Về Miền Trung, Tiếng Sông Hương







Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2018

Hòa Thượng Thích Không Tánh bên đống đổ nát của Chùa Liên Trì.




"Đây hai bàn tay tôi
Là trái tim
Là khối óc
Là cuộc đời
Là tất cả những gì còn sót lại"



"Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên"



 
"Hãy mang tôi tới giữa đời
Giết tôi chết giữa cõi đời mốc meo
Hãy mang tôi tới nắng chiều
Giết tôi chết giữa một chiều khe mương
Hãy mang tôi tới dặm trường
Giết tôi chết giữa con đường bơ vơ
Hãy mang tôi tới bất ngờ
Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên
Hãy mang tôi tới diện tiền
Giết tôi chết giữa người thuyền quyên kia."


 



Thứ Năm, 18 tháng 1, 2018

Blogger Nguyễn Ngọc Già kể chuyện đi tù







“Tôi luôn chọn đứng về công lý và sự thật để bênh vực cho người dân oan, tù oan, cũng như cố gắng đưa ra các biện pháp cụ thể để giải quyết những bất công trong xã hội và ứng phó với nhà cầm quyền Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông. Đảng Cộng sản Việt Nam nên cám ơn tôi thay vì bỏ tù tôi.”

 Đó là tâm sự của blogger Nguyễn Ngọc Già, tên thật Nguyễn Đình Ngọc, người vừa mãn hạn tù hôm 27 tháng 12 năm 2017.

Blogger Nguyễn Ngọc Già bị chính phủ Hà Nội kết án tù 3 năm tù giam và 3 năm quản chế với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam trong một phiên tòa vào cuối tháng 3 năm 2016. Ông là một blogger rất ‘kín tiếng’ như chính điều ông thừa nhận về mình là một người chọn "cô đơn trong tự do tư tưởng để đi". Kể từ khi mãn hạn tù, blogger Nguyễn Ngọc Già cũng không lên tiếng với báo chí nên có lẽ không có mấy người biết được những gì ông đã trải qua, đã chứng kiến trong tù.

Tuy nhiên, vào sáng ngày 18 tháng Một năm 2018, ông đã dành cho Đài Á Châu Tự Do cuộc nói chuyện kể lại một số điểm đáng chú ý trong thời gian phải thụ án tù mà ông cho là oan ức.

Cuộc nói chuyện với tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già do Gia Minh thực hiện.

Gia Minh: Ông dùng từ ‘tù nhân nhân quyền’ cho bản thân, vậy xin ông  cho biết lý do?

Tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già: Kính chào anh Gia Minh và kính chào quý khán thính giả đài RFA. Trước tiên cho tôi xin được nhắc lại là tôi là tù nhân nhân quyền bởi lẽ tôi chỉ thực hiện quyền con người của mình và vì thế tôi bị bắt phi pháp với án tù 3 năm tù giam và 3 năm quản chế. Tù nhân lương tâm là một khái niệm có từ cách đây khoảng 60 năm. Hiện nay thì tù nhân lương tâm vẫn đúng nhưng theo thiển ý của tôi tù nhân lương tâm chỉ có phạm vi hẹp bởi vì không chỉ những người bị bắt bởi điều 88, 258 hay 79, mà chúng ta biết được trong xã hội Việt Nam hiện nay rất nhiều người bị bắt vì quyền con người. Ví dụ trước đây có nông dân Đoàn Văn Vươn. Anh ấy chỉ đòi quyền đất đai mà bị kết án tù. Và mới đây thương tâm hơn đó là nông dân Đặng Văn Hiến cũng vì quyền đất đai mà nhận bản án tử hình trong phiên sơ thẩm vừa rồi.

Tôi nghĩ tất cả những người đó đều đang đòi quyền con người của họ và họ cũng nên được gọi là tù nhân nhân quyền. Thứ hai là những người đấu tranh khác họ cũng đòi quyền con người mà thôi. Có những người bị vu cho là trốn thuế, chống người thi hành công vụ, vu cho gây rối trật tự công cộng nhưng trên thực tế thì dư luận quốc tế và trong nước đều biết là họ chỉ thực hiện quyền con người. Và như vậy tôi nghĩ quyền con người mà gọi theo tiếng Hán Việt  là nhân quyền, là một cái phổ quát, cái căn bản nhất mà tất cả người  Việt Nam hiện nay đều đang thiếu trầm trọng. Và vì vậy tôi đề nghị hãy gọi chúng tôi là tù nhân nhân quyền.

Tôi muốn khẳng định một lần nữa là tôi không hề chống nhà nước. Tôi chỉ thực hiện quyền con người theo đúng hiến pháp, pháp luật và tất cả các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký cam kết.

Gia Minh: Từ khi ông bị bắt, bị kết án đến lúc mãn án tù; không có thông tin gì về trường hợp của ông được đưa ra ngoài; vậy ông có thể chia sẻ những điều gì đáng nêu ra về thời gian ở trong các trại giam giữ?

Tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già: Vì tôi chọn con đường "cô đơn trong tự do tư tưởng để đi", cho nên việc tôi bị bắt mà dư luận không hay biết cũng là bình thường. Tôi biết trước tôi bị bắt, bởi vì 3 bài viết "Tôi biết ơn Việt Nam Cộng Hòa", "Bàn về câu chuyện lá cờ" và "Hội nhà báo Việt Nam độc lập mất đoàn kết?", tôi đã cố tình cung cấp thông tin cho nhà cầm quyền Việt Nam. Có thể nói, tôi cung cấp đến 90% lai lịch của tôi, nên họ tìm ra không có gì là khó khăn. Tôi cam đoan cho đến nay, cả Sài Gòn chỉ có duy nhất gia cảnh của tôi là như vậy.

Việc tôi bị bắt không liên quan đến bất kỳ báo đài hay cá nhân nào cả. Tôi khẳng định để tránh những thông tin thất thiệt, nhằm nhiều mục đích, trong đó có mục đích làm ảnh hưởng đến báo, đài và ảnh hưởng đến danh dự của người khác.

Mặc dù tôi bị bắt đột ngột  đối với mọi người, nhưng tôi tin rất nhiều người và các tổ chức trong và ngoài nước quan tâm đến tôi, dù không biết rõ tôi là ai vào lúc bấy giờ. Khi tôi về nhà đọc tin tức, đúng như tôi dự đoán. Đó cũng là niềm an ủi rất lớn đối với tôi, bởi lẽ nhiều năm viết báo lặng thầm, tôi viết bằng lương tri dựa trên 3 căn cứ: sự thật, pháp luật và sự bền bỉ.

Lẽ ra, nhà cầm quyền VN đã trả tự do cho tôi sau khoảng 4 tháng tạm giam, như đã thả ông Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập. Điều này do chính thiếu tá Nguyễn Đình Tứ (trưởng nhà tạm giam số 4PĐL nói với tôi, vào một hôm tôi rất buồn, đề nghị gặp ông ta để nói chuyện (trước khi chuẩn bị ra tòa sơ thẩm), nhưng vì tôi không nhận tội, nên họ quyết giam tôi luôn cho đến ngày ra tòa.Tôi luôn chọn đứng về công lý và sự thật để bênh vực cho người dân oan, tù oan, cũng như cố gắng đưa ra các biện pháp cụ thể để giải quyết những bất công trong xã hội và ứng phó với nhà cầm quyền Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông. Đảng Cộng sản Việt Nam nên cám ơn tôi thay vì bỏ tù tôi.

Có lần (tôi nhớ khoảng cuối tháng 1 hay đầu tháng 2/2015) họ dẫn ông Lập đi ngang qua, ngang lại mấy lần trước phòng "đi cung" mà tôi ngồi nhìn ra phía cửa. Ông Lập có nhìn vào, tất nhiên, tôi biết ông Lập nhưng ông Lập không biết mặt tôi.

Ngày ông Lập được trả tự do, tôi biết (vì ở đó họ để tôi mua báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ). Ngay lúc sáng vừa mua báo đọc xong (tôi nhớ khoảng hơn 9 giờ, vì họ giao báo trễ lắm), họ gọi tôi ra và hỏi tôi có ý kiến gì không (tôi nghĩ họ gợi ý tôi nhận tội một cách khéo léo chứ không thẳng thừng, vì trong bài báo tuổi trẻ, ông Lê Đông Phong Giám đốc Công an TPHCM trả lời báo giới là ông Lập nhận tội rồi, nên được thả). Tôi trả lời, tôi vừa đọc báo thấy ông Lập được thả. Mừng cho ổng vì ổng không lành lặn, nên ở tù tội lắm Họ ngồi nói với tôi vài ba câu chuyện và sau đó để tôi đi vào.

Với nhiều biểu hiện lúc bấy giờ ở số 4 PĐL (như kể trên) cũng như đọc báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ và họ còn cho một người "nhảy sô" tên Hiệp (nhưng cậu ta nói với tôi là tên Tùng) vào ở với tôi (Lúc đó ở trong xà lim (có từ thời Pháp) sau 2 lớp cửa, chỉ khoảng 4m2/2 người,  trong 7 tuần lễ, không nắng, không gió, không ánh sáng tự nhiên, nước xài rất ít), qua nhiều lần nói chuyện với cậu Hiệp, với đại úy Nguyễn Lương Y, thiếu tá Nguyễn Đình Tứ v.v... tôi biết nếu ông Nguyễn Tấn Dũng còn ở lại sau đại hội XII, có lẽ họ sẽ thả tôi. Nhưng chính trị vốn khó lường, cho tới khi có kết quả Bộ Chính trị mới thì tôi cảm nhận là... "xong rồi"!

Một lần vào cuối tháng 4/2015, họ gọi tôi ra trong một phòng tươm tất hơn, có cả trà mời tôi uống và có cả camera chĩa vào tôi (tôi nghĩ để phòng bên cạnh theo dõi buổi nói chuyện, tất nhiên là những người mà tôi nghĩ họ quyết định thả hay nhốt tôi tiếp). Tôi đã nói với đại úy Long, đại úy Y và ông Vinh (bên Viện Kiểm sát thành phố) rất nhiều lần, tôi không chống nhà nước gì cả; hãy trả tự do tôi, bắt thêm một người như tôi cũng chẳng giải quyết được gì; điều 88 là điều luật chống lại nhân dân (lúc đó đại úy Trần Thanh Long còn hỏi tôi có chứng minh được không, tôi nói, nếu vậy tôi phải viết một bài) v.v...

Một hôm "đi cung" (khoảng tháng 5 hay tháng 6/2015), đại úy Trần Thanh Long nói với tôi: "Anh bị bắt không phải vì những bài viết của anh mà vì lý do khác". Tôi im lặng, chờ xem cậu ta nói gì nữa. Khoảng 10 giây sau, không thấy tôi nói gì, cậu ta nhăn mặt và thốt lên, nghe rất ta thán: "Chính trị nhức đầu quá!". Theo đánh giá của tôi, Trần Thanh Long là một người công an có lương tâm nhất ở số 4 PĐL. Tôi nói điều này để chuyển thông điệp đến nhà cầm quyền VN trong bối cảnh hiện nay, lúc mà Đảng cộng sản Việt Nam đang ngổn ngang "xây dựng và chỉnh đốn đảng", những người như Trần Thanh Long đáng để cất nhắc ở cương vị cao hơn và quan trọng hơn. Bởi sau đó, tôi nói lại với đại úy Nguyễn Lương Y (cũng là một người hỏi cung tôi) về câu nói của Trần Thanh Long, cậu Long không còn tiếp tục "hỏi cung" tôi nữa mà chuyển về làm "phó nhà tạm giam", phụ việc lặt vặt, thậm chí đẩy xe cơm tù. Bộ Công an nên xem lại điều này, chính những người như cậu Long mới góp phần khôi phục hình ảnh của giới Công an mà Đảng Cộng sản Việt Nam đang rất cần hiện nay.

Lần khác, khoảng đầu tháng 8/2015, cũng trong một lần "đi cung", đại úy Nguyễn Lương Y bỗng nhiên đề cập đến con tôi theo cách: hãy nghĩ đến gia đình v.v... Tôi bình thản nói, trách nhiệm làm cha, tôi đã khá tròn bổn phận, tôi sống dân chủ, không áp đặt con cái v.v... Cho đến ngày 20/8/2015, giấy nhận hàng thăm nuôi đưa vào, qua lỗ nhỏ phòng giam, tôi giật mình khi nhìn thấy chữ viết và chữ ký của con trai út tôi. Tôi vừa vui mừng vừa lo âu đến trào nước mắt. Đó là lần đầu tiên và là lần cuối cùng sau 8 tháng tù, tôi nhìn thấy chữ viết và chữ ký của nó. Sau đó, con tôi qua đời ngày 28/8/2015. Ngày  25/9/2015 PA92 báo tin cho tôi là con tôi mất. Tôi không thể nào quên được cái ngày khủng khiếp đó, với cách báo tin mà tôi thấy thật tàn nhẫn vô nhân đạo, từ thượng tá Hoàng Văn Dũng, thượng tá Nguyễn Anh Tuấn, cho đến đại úy Nguyễn Lương Y và 2 người phụ trách về kỹ thuật internet mà tôi không biết tên.

Sau đó, tôi có làm "đơn xin nhận tội", để mong về cúng 100 ngày cho thằng nhỏ rồi vào lại, nhưng họ cũng khước từ. Thượng tá Hoàng văn Dũng nói với tôi là: "Anh làm thì làm chứ tụi tui không cần". Tuy thế, tôi vẫn làm mặc dù biết là không được. Lúc kết thúc điều tra rồi, ngày 31/12/2015, họ cũng không cho tôi gặp gia đình. Khoảng đâu 10 ngày sau, tôi giả bộ xin ra làm đơn, lừa lúc họ không chú ý, tôi chạy lên khoảng chục bậc thang gác, rồi nhảy xuống. May là không sao, chỉ đau lưng ê  ẩm khoảng 1 tuần. Sau đó, họ mới cho gia đình tôi vào thăm gặp. Từ đó, đổ đi mỗi tháng tôi được gặp gia đình 1 lần. Nhận đồ thăm nuôi thì 2 tuần 1 lần (như từ lúc tôi vừa bị bắt).

Qua Chí Hòa (ngày 20/4/2016), tôi gặp được thượng úy Lê Minh Phùng, cũng là người rất tốt, nhờ cậu Phùng mà 12 lời nhắn và 8 lời nhờ cậy của tôi được tạo điều kiện cho người bạn tù học thuộc lòng và mang ra bên ngoài, nên Dân Làm Báo và các báo đài v.v... mới biết mà lên tiếng cho tôi. 12 lời nhắn và 8 lời nhờ cậy, tôi cũng nhờ gởi cho báo Nhân Dân và Sài Gòn Giải phóng. Tôi nghĩ đó là những sự thật mà "các báo nhà nước" phải biết, dù tôi không tin họ lên tiếng, nhưng tôi chọn báo Nhân Dân và Sài gòn Giải phóng để gởi bởi vì đó là cách hay nhất bảo vệ cậu Lê Minh Phùng, trong thời cuộc ngày hôm nay. Công khai rộng rãi đúng thời điểm, đúng sự việc là cách tôi nghĩ phù hợp với bản thân mình.

Cũng vì 12 lời nhắn và 8 lời nhờ cậy và vì giúp bạn tù viết bài bào chữa, viết lời nói cuối cùng, đồng thời tôi tố cáo (bằng văn bản viết tay) thiếu tá Lê Văn Yên phó khu F dung dưỡng nạn đại bàng, vi phạm Luật thi hành án hình sự và có dấu hiệu ăn hối lộ, nên tôi bị trả thù bằng 2 lần đi cùm do thượng tá Nguyễn Văn Em và thượng tá Nguyễn Quang Quế, ký lịnh, nhưng họ không chịu đưa tôi quyết định cùm, mặc dù tôi có đòi, họ chỉ đưa tôi coi rồi lấy lại. Tôi còn bị đại tá Nguyễn Hoàng Tuấn - giám thị Chí Hòa làm công văn gởi Tòa án nhân dân cấp cao vu khống tôi "chống phá nhà nước", nhằm mục đích tăng nặng tội tôi thêm. Công văn này, tôi biết được là nhờ Luật sư Hà Huy Sơn vào với tư cách luật sư của tôi đưa tập hồ sơ tôi xem, khi anh Sơn vào gặp tôi trước ngày ra tòa phúc thẩm. Khu F Chí Hòa còn vi phạm nội quy trại tạm giam, giam lẫn lộn người đã thi hành án và người đang chờ kháng cáo kháng nghị, tạo điều kiện cho đại bàng là Đỗ Viết Quế  (đã có án chính thức là 2 năm về tội "cố ý gây thương tích", nhưng lo tiền để nằm lại trong phòng khỏi phải đi lao động) được thiếu tá Yên giao làm "đại diện buồng", hắn bắt bạn tù phục dịch, chửi bới và hành hạ bạn tù rất nhiều. Đỗ Viết Quế còn khoe sẽ ra tù vào 2/9/2016 vì lo tiền. Và đúng y như vậy. Khi tôi tố cáo Đỗ Viết Quế, Chí Hòa mới lo sợ, họ vừa cùm tôi vừa chuyển tên này xuống ở khu của những người chuẩn bị tự do và sau đó, ra tù đúng dịp 2/9.

Gia Minh:Thực tế nhà tù Việt Nam từng được một số cựu tù nhân lương tâm/tù chính trị cho biết trước đây. Ông có thể đối chiếu và so sánh gì?

Tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già: Tôi nhớ anh Điếu Cày từng nói, khi đã qua Mỹ: Nhà tù nào ở Việt Nam cũng ác, nhưng ở Cái Tàu - Cà Mau đúng là "trại súc vật". Riêng tôi, tôi phải nói rằng "Mỗi nhà tù một kiểu, ác thì ngang nhau". Lao động khổ sai, như tại Chí Hòa, tận mắt tôi chứng kiến, rất khổ và nguy hiểm, khi người tù phải khiêng "nước đá cây" mỗi ngày leo lên 4 tầng lầu, có khi nước đá rớt dập chân, làm hư và thúi móng chân. Người tù lao động bị đánh như cơm bữa. Không những thế còn bị đánh hội đồng rất dã man. Gắn camera ngoài hành lang chỉ là hình thức, công an lôi người tù vào góc khuất để đánh. Tôi nhớ, chiều ngày 22/5/2016, một nhóm công an khoảng 5 - 6 người cầm dùi cui và thay phiên nhau đánh một cậu bé (trong tù gọi là "cô nhi", ám chỉ những người dưới 18 tuổi) rất dã man, ở tầng trệt khu BC. Tôi nhớ rõ như in, bởi ngày đó là ngày bầu cử quốc hội. Còn nhiều trận đòn khác nữa mà chính tôi chứng kiến ngay trong phòng 13 khu F tôi ở, khi người tù lén hút thuộc lào. Phải nói là bị đánh tơi tả. Rồi bị cắt thăm nuôi 1 tháng.

Còn ở trại Xuân Lộc, họ vi phạm quy trình, nội dung pháp lý và pháp luật. Khi nói với họ về luật, họ cứ trơ ra. Ngay cả thông tư 27 mới nhất của Bộ Công an có hiệu lực từ 6/10/2017, tôi nhắc nhưng họ vẫn coi như không. Đó là điều mà Bộ Chính trị , ông Tô Lâm, ông Nguyễn Ngọc Bằng (Tổng cục trưởng TC8) nên xem lại, trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập quốc tế, mà Việt Nam là nước vừa nhỏ vừa yếu, chứ không phải lớn và mạnh như Trung Quốc.

Trại Xuân Lộc cũng không phổ biến pháp luật  cho tù nhân. Mà đây lại là trách nhiệm của các trại tù.
Về luật Thi hành án hình sự, các cơ quan hành pháp và tư pháp đều vi phạm nghiêm trọng. Ví dụ như, không giao bản án phúc thẩm và quyết định thi hành án cho tôi. Tôi đã gửi thư đòi tòa giao cho tôi từ tháng 8/2017 sau hơn nửa năm trời yêu cầu giấy viết từ trại Xuân Lộc, mới viết được. Ban đầu họ làm lơ, khi tôi đòi quá, thì thiếu tá Nguyễn Thế Thung nói đó là nhiệm vụ của Tòa, nên mới đưa giấy viết cho tôi. Tuy nhiên,  từ đó đến nay, bên tòa cũng không hồi đáp gì cả. Hoặc cũng có thể trại Xuân Lộc không gởi thư của tôi đi. Tuy nhiên, tôi đã sử dụng "bản kiểm điểm" theo quy định pháp luật (nhằm để bình bầu cho việc giảm án) 6 tháng đầu và cuối năm để trình bày đầy đủ mọi việc rồi. Các bản kiểm điểm này là văn bản quy phạm pháp luật, nên tôi tin trại Xuân Lộc còn lưu.

Có một số bạn tù lại thực hiện tẩy chay, không viết bản kiểm điểm. Tôi nghĩ, quan trọng là chúng ta viết nội dung gì và có viết sự thật hay không trong bản kiểm điểm.

Đa số bạn tù của tôi đều giống nhau suy nghĩ, viết bản kiểm điểm chỉ là việc "nhận tội" hay "không nhận tội",  một vài người thì nghĩ không nhận tội thì khỏi viết luôn.  Tôi hay nói với anh em tù: "Đòi thì chưa chắc được, nhưng không đòi thì không bao giờ được". Tuy nhiên, bạn tù tôi lại có quan điểm khác: Đòi hay xin phải được mới đòi, mới xin. Nhưng biết có đòi, có xin không bao giờ được nên khỏi đòi, khỏi xin luôn. Đó thuộc về nhân sinh quan, nên rất khó thuyết phục.

Tôi đòi phổ biến luật thì họ đưa ra cho coi... bảng "nội quy trại giam".  Đòi kiên trì, họ mới đưa ra thông tư (số  ngày gì đó, tôi không tài nào nhớ nổi),  trong đó, tôi thấy có việc "nhận tội" mới được giảm án. Nhưng, về nhà, tôi tìm trên mạng thấy thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC "HƯỚNG DẪN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIẢM THỜI HẠN CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ ĐỐI VỚI PHẠM NHÂN" ban hành ngày 15/5/2013, có hiệu lực từ 01/7/2013, trong đó tại điều 6 chương 2 không hề quy định tiêu chuẩn để được giảm án là phải "nhận tội". Ở điều 18, chương 5 nói rằng "Các văn bản trước đây của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trái với Thông tư liên tịch này đều bãi bỏ". Tôi không nhớ rõ cái văn bản kia (chắc là văn bản hết hiệu lực).

Trên thực tế, các trại tù luôn đòi người tù (thường gọi là TNLT) phải nhận tội như là tiêu chuẩn số một để giảm án. Việc này vi phạm thông tư  liên tịch 02, không những vậy nó còn phản khoa học, vì "nhận tội" hay "không nhận tội" đó là "công đoạn" của quá trình điều tra và xử án, không phải của "công đoạn" thi hành án. Ngay cả những người đã ra tù, có lẽ cũng không để ý đến điều này.
Người ta cũng biết, Bộ luật tố tụng hình sự (mới) có điều 13 "Suy đoán vô tội", nên việc "nhận tội" để được giảm án trở nên mâu thuẫn với luật mới này. Tôi nghĩ các luật liên quan nên đồng bộ với nhau.

Về quy trình bình bầu để được xét giảm án, trại tù Xuân Lộc cũng không hề phổ biến. Ngay cả những bạn tù của tôi ở 18 - 21 năm cũng không hề biết và không hề quan tâm đến quy trình, khi tôi hỏi mấy anh em "quy trình xét bình bầu", họ còn nhầm lẫn là "tiêu chuẩn xét bình bầu". Không ai biết "quy trình bình bầu" và cũng không ai hiểu rõ "tiêu chuẩn bình bầu". Tất cả "tiêu chuẩn" hay "quy trình" chỉ là truyền miệng giữa người tù cũ và mới.

Trong quy trình xét bình bầu để được giảm án hay không, luôn phải có chữ ký "đội trưởng" (lẽ ra do anh em tù trong đội bầu lên) trong việc tổ chức họp bình bầu, bởi vì mẫu bản kiểm điểm (là văn bản quy phạm pháp luật, do Bộ Công an ban hành) có chữ ký đội trưởng trong đó và đội trưởng là khâu đầu tiên phải trải qua trong việc bình bầu.

Tôi ở Xuân Lộc 1 năm, nhưng Xuân Lộc không bao giờ tổ chức họp theo quy định, họ chỉ phát bản kiểm điểm, ai viết thì viết , ai không viết thì thôi. Viết xong, họ thu về. Tôi đòi nhiều lần họp đội để "đội trưởng" trình diện cho anh em biết. Họ phớt lờ cho đến lúc tôi kiên trì đòi, thiếu tá Nguyễn Thế Thung mới vội vã đưa ra quyết định giao ông Phan Thanh Liêm (bạn tù của chúng tôi) làm đội trưởng cho tôi coi, nhưng tôi hỏi ông Liêm, ông ấy nói không hề làm đội trưởng. Tôi nghĩ họ ngụy tạo vì QĐ ban hành vào tháng 6/2017, trước đó chẳng có ai làm đội trưởng cả.

Vấn đề "nhận tội" hay "không nhận tội" lại là một đề tài khá tế nhị, bởi từ đó mà bạn tù rất dễ chia rẽ, kỳ thị lẫn nhau và cả dư luận bên ngoài cũng xét nét vấn đề này nhiều lắm. Mặt khác, trại tù cũng vin vào đó là "căn cứ số 1" để muốn cho ai giảm án, giảm bao nhiêu thì giảm, nên những người nhận tội hầu như sống lặng lẽ, như một cái bóng, không hề dám mở miệng dù là việc rất nhỏ, vì sợ mất lòng cai tù, rồi  bị "múa bút" phết vào "kém" là coi như năm đó không được giảm án tháng nào.

Mặc dù, tôi không nhận tội, nhưng tôi thấy rất thương những người nhận tội. Họ như những chú mèo, luôn sợ hãi mọi thứ chung quanh. Sợ cả bạn tù, sợ cả công an cai tù, sợ ngay cả những tù thường phạm lao động. Nói chung họ sống với nỗi sợ hãi thường trực cùng tâm trạng phập phồng, nơm nớp. Nói đúng hơn là họ tồn tại như những "xác sống biết đi", chứ không phải con người bình thường.
Tất cả những việc muốn giảm bao nhiêu tháng, giảm hay không giảm hoàn toàn tùy thuộc vào giám thị, phó giám thị và các trưởng phân khu. Có thể hình dung, các giám thị như là một lãnh chúa cai quản một "lãnh địa". Giám thị muốn gì làm nấy, như một thứ "luật bất thành văn".

Tôi thấy trại Xuân Lộc làm việc mờ ám và vi phạm luật nhiều lắm. Ví dụ như: tôi ở đội 32 chỉ có mười mấy người, họ nhốt cách ly chúng tôi sau 3 lớp cửa, cứ 2 người 1 phòng, cứ 4 người có 1 sân chung nhỏ chừng vài bước chân cho mỗi bề ngang và bề dọc, cứ 2 người thì có một ô đất nhỏ chừng 2,5 mét vuông để ai muốn trồng gì thì trồng, có một góc bếp để tự nấu ăn.  Chúng tôi bị nhốt như thế suốt ngày đêm như trong sở thú. Sáng khoảng 5h30 đến 6 giờ họ mở lớp cửa thứ 2 và thứ 3, cho chúng tôi ra khoảng sân nhỏ như thế, đến 11 giờ trưa họ khóa lớp cửa thứ 2, đến 1 giờ rưỡi mở ra, rồi đến 5 giờ chiều thì chúng tôi vào trong phòng cho đến sáng hôm sau.  Cứ mỗi lớp cửa họ gắn 1 camera để giám sát chúng tôi, một cái ở cửa 1 (cửa 1 chỉ được bước ra lúc lấy cơm), một cái ở cửa 2 (cửa 2 trưa đóng lại) và 1 cái ở cửa 3 (tức ngay phòng ngủ). Camera ở cửa 3 chĩa vào ngay chỗ ngủ rất trơ trẽn, anh em tù phản đối nhưng họ cứ phớt lờ, riêng tôi viết một lá thư gởi cho giám thị - đại tá Thái Duy Hồng nói thẳng là phải xức thuốc ghẻ ở chỗ kín, các ông gắn camera vậy, tui thấy kỳ quá! Chúng tôi đâu phải con thú. Tất nhiên, đáp lại là sự im lặng.

Có 1 cái TV chỉ cho coi VTV1 và VTV3. Từ chỗ ở ra đến chỗ thăm nuôi, tôi phải qua 5 lớp cửa tù (3 lớp như kể trên, sau đó đi qua 1 khoảng sân dài chừng 50 mét) tới lớp cửa thứ 4, sau đó khi một khoảng sân nữa cũng chừng 50 mét là lớp cuối cùng. Từ lớp cuối này đi khoảng 20 mét ra phòng thăm nuôi. Vấn đề thăm nuôi cũng lắm gian nan...

Trại Xuân Lộc muốn người tù sống lặng lẽ như thế;  không đòi hỏi, không mong muốn, không thắc mắc, không khát khao, không cần suy nghĩ gì cả, đến giờ ăn thì ăn, đến giờ ngủ thì ngủ, ai muốn tập thể dục thì tập; TV có đó, cứ coi; ngồi chờ đến ngày về, đừng "cự cãi", "đừng xin xỏ", "đừng thắc mắc" gì hết v.v.... Và tất cả đều câm lặng, lầm lũi sống như vậy. Tôi nghĩ hầu hết mọi bạn tù của tôi như là những "cái xác sống di động"! Tôi nói thật,  không hề có ý mỉa mai gì cả, trại Xuân Lộc hoàn toàn thành công khi biến những con người bình thường trở thành những "phế nhân tinh thần" (kể cả những người không nhận tội cũng đầy sợ hãi và nghi kỵ lẫn nhau).

Tất cả bạn tù ở chung với tôi, đa số đều ở tù rất lâu, hầu như không ai hiểu biết về pháp luật, nên trại tù "múa" kiểu gì họ theo kiểu đó. Cũng bởi 2 hội chứng "stockholm và tự kiểm duyệt", nên ngay cả những người "không nhận tội" cũng lạc hậu hoàn toàn và hầu như không quan tâm gì khác ngoài việc trông đến ngày về.

Ở tù rồi mới thấy  2 loại hội chứng nói trên rất đáng sợ. Hai hội chứng này phát triển nhanh và đúng về tâm lý. Hai hội chứng này không chỉ diễn ra ở tù thường phạm mà ngay cả những người bạn tù ở chung với tôi (về tội 84, 79, 88)  cũng bị rất nhiều.  Trong khuôn viên rộng lớn như K2 Xuân Lộc, nhưng nó giống như một nghĩa trang đìu hiu và vô cùng vắng lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng kinh vọng vang từ xa xa (tôi nghĩ đó là dành cho những người vừa mới chết) và nhiều chi tiết khác, chính những điều này luôn tạo cho người tù sống trong bất an, một cái thở mạnh cũng không dám, một tiếng cười giòn tan, sảng khoái cũng không có, một câu chuyện tiếu lâm kể cho nhau cũng không. Hậu quả của những tháng năm trầm uất khiến người tù bị rất nhiều chứng bệnh, trong đó đặt biệt là đau dạ dày. Còn nhiều loại bịnh lắm: thận, tim, mắt, rụng răng, đau đầu kinh niên, viêm đa khớp v.v...

Có anh Phạm Xuân Thân (án chung thân vì ám sát đoàn tiền trạm của Giang Trạch Dân từ hồi những năm cuối 90 thế kỷ trước, nghe ảnh nói nếu ảnh nhận tội thì đã về từ lâu, vì gia đình ảnh cũng hầu hết là công an), anh ấy bị viêm xoang rất nặng. Xin đi chữa, họ cứ làm ngơ. Bởi vì, đưa người tù ra chữa bịnh viện đời, rất khó khăn vì họ rất sợ trách nhiệm nếu tù nhân bỏ trốn. Tất cả công an ở tất cả trại tù vô cùng sợ trách nhiệm. Đây cũng là "bệnh chung" của cả bộ máy nhà nước bấy lâu nay, không chỉ riêng "lãnh vực ở tù".  Tôi có đòi đưa anh Thân đi chữa viêm xoang vì nặng lắm, đứng gần ảnh nghe cả mùi hôi khi nói chuyện, nhưng tuyệt nhiên họ không đưa đi. Nói cho ngay, cũng vì trách nhiệm họ sợ quá, chứ cũng không phải họ không muốn. Bởi vì đi như thế, luôn luôn phải có công an đi cùng 24/24. Các sinh hoạt đều phải chịu sự giám sát. Ví dụ, đi toilet xong, ra là phải còng tay liền, đi chích thuốc, đi xét nghiệm v.v... cũng y như vậy. Nhiêu khê lắm, nên CA sợ lắm. Hãy nhớ lại thầy giáo Đinh Đăng Định là việc điển hình cho tính sợ trách nhiệm.

Nói chung, trại tù Xuân Lộc coi tất cả như thế là chẳng hề vi phạm quyền con người gì cả (!). Chắc họ nghĩ chỉ khi nào đánh đập, cùm chân, chửi bới, bỏ đói mới là ... vi phạm Quyền Con Người (!). Ngay cả vấn đề giám sát hầu như không có. Tổng cục 8 xuống như "cưỡi ngựa xem hoa" (tôi gặp hai lần, 1 lần vào ngày 1/4/2017, thiếu tướng Phan Xuân Sơn, tôi chất vấn thì trả lời cách giam tù như vậy không có gì vi phạm quyền con người).

Trong tù, có câu ngạn ngữ: "Tù chỉ cần mình gục chứ không cần mình phục"!  Tôi nghĩ, giới công an nói chung, không phải không biết, nhưng chắc họ nghĩ  mình là tù, nên họ không muốn tạo thành tiền lệ (dù những đòi hỏi của tôi đều đúng theo pháp luật) để rồi kiểu như gọi là "được voi đòi tiên".
Tóm lại, trại Xuân Lộc hành xử rất tùy tiện, khi thi hành công vụ, mặc dù tôi đã nhắc họ rằng ông Tô Lâm yêu cầu giới công an không được đứng trên và đứng ngoài pháp luật mà tôi đọc từ báo Nhân dân. Cũng có lẽ vì vậy, ông Nguyễn Xuân Phúc phải than "trên nóng dưới lạnh" hay trước đây ông Phan Văn Khải nói "trên bảo dưới không nghe". Chính tình trạng này làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam dễ "sa lầy" trong mọi vấn đề, không riêng "vấn đề ở tù". Điều này thì ai cũng thấy và biết rõ.
Hoàn cảnh xã hội VN hiện nay, bi đát và tan nát về mọi mặt, nhất là về "nhân tâm", Bộ Chính trị nên suy ngẫm và thay đổi cung cách quản lý và tuân thủ pháp luật ở các trại tù, chứ cứ như hiện nay góp phần rất nhiều trong việc bôi nhọ "danh dự uy tín" của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh vấn đề tham nhũng, mà giám thị và phó giám thị trại Thạnh Hòa bị kỷ luật tháng 7/2017 là một ví dụ về chính sách "nhân đạo và khoan hồng" của nhà cầm quyền VN bị trại tù làm hoen ố.

Tôi nghĩ, đe dọa sự tồn vong của chế độ này, không chỉ từ tham nhũng - như ông Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận - mà còn từ tình trạng bắt người phi pháp và thi hành án vô nhân đạo - tức là một trong các Quyền Con Người bị chà đạp (tình trạng này nói chung cho cả tù thường phạm chứ không chỉ riêng những người bất đồng chính kiến hay hoạt động XHDS), sau đó mới đến vấn đề Biển Đông.  Đây là trách nhiệm của ĐCSVN, cụ thể là của Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương đảng bởi điều 4 hiến pháp quy định "... Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về mọi quyết định của mình" mà trong điều 4 hiến pháp cũ không có.

Gia Minh: Từ sau đại hội đảng cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2016 và sang những tháng đầu năm 2017, cơ quan chức năng Việt Nam tiến hành chiến dịch đàn áp mạnh tay đối với giới bất đồng chính kiến, các tiếng nói đối lập, các nhà hoạt động vì dân chủ- nhân quyền. Một số đã bị tuyên án nặng với các cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN’ và ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’; ông có nhận định gì về các biện pháp đó?

Tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già: Trước tiên, tôi xin phép chia sẻ suy nghĩ về  các loại xử án, tôi nghĩ có 5 loại: Xử theo thành kiến, xử theo thái độ, xử theo dư luận, xử theo thời cuộc và loại thứ năm là loại hỗn hợp của hai đến ba hoặc bốn loại trên. Ông Đinh La Thăng và các ông khác hiện đang bị xử loại năm (với sự pha trộn giữa loại 3 và loại 4). Hoặc như chị Mẹ Nấm (là loại 1 + loại 2 + loại 3 + loại 4), chị Trần Thị Nga cũng giống vậy, hoặc như trước đây là Đoàn Văn Vươn là loại 3 + loại 4. Tôi muốn nói rõ để tránh hiểu lầm. Khi xử theo loại 2, loại 3 và loại 4, có cả 2 chiều, có thể tốt lên hoặc cũng có thể xấu đi, ví dụ vụ Đoàn Văn Vươn là tốt lên hay Huỳnh Văn Nén được minh oan và đền bù, đó là tốt lên

Cũng như nhiều người đã nói, tăng cường bỏ tù phản ánh câu nói của Marx "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh". Càng đấu tranh nhiều thì bị bỏ tù càng nhiều. Đó là đúng theo quy luật. Tất nhiên chẳng ai muốn ở tù. Nhưng ngoài biện pháp bỏ tù, sách nhiễu, đàn áp nhiều cách khác nhau, có lẽ Đảng Cộng sản Việt Nam không tìm ra được biện pháp nào tốt hơn. Nếu chúng ta đặt mình vào vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải nói thật là cũng rất khó, vì tình hình bấy lâu nay, giống như căn bịnh trầm kha mà "lờn thuốc" rồi. Do đó, ngoài chữ "bế tắc chính trị", tôi không biết còn có từ nào phù hợp hơn không.

Gia Minh: Theo ông sự lên tiếng can thiệp của các tổ chức quốc tế và Liên Hiệp Quốc cho các trường hợp tù nhân lương tâm có tác dụng đến đâu và nên tiến hành thế nào?

Tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già: Nói về Liên Hợp Quốc, thì đó là tổ chức lớn nhất hành tinh, với sự tham gia tự nguyện của hàng trăm quốc gia. Chính vì tự nguyện tham gia nên tất cả các công ước đều theo "cơ chế tự nguyện". Các quốc gia ký cam kết và nếu tự nguyện thực thi thì tốt, nếu không cũng không có gì ràng buộc.

Hồi tôi ở Xuân Lộc, đâu khoảng tháng 3/2017, coi VTV sáng có tin Ngoại trưởng Rex Tillerson tuyên bố "Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc nếu tổ chức này không tiến hành cải cách lớn" và sau đó khoảng đâu tháng 9 hay 10 gì đó, VTV có đưa tin  Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres nói là (hình như) thúc đẩy chương trình cải cách toàn diện để tăng cường hiệu quả của Liên Hợp Quốc. Không biết bây giờ ra sao rồi nữa.

Các tổ chức phi chính phủ thì chức năng của họ như là người quan sát, dõi theo và lên tiếng cho chúng tôi. Có lẽ cũng chỉ dừng lại đó, dù rất là biết ơn các tổ chức này, nhưng tôi hiểu giới hạn của họ là chừng mực.

Gia Minh: Nhân câu chuyện đầu năm 2018 này, ông có điều gì muốn tâm tình cùng quí khán, thính giả của Đài Á Châu Tự Do?

Tù nhân nhân quyền Nguyễn Ngọc Già: Tôi viết bằng lương tri dựa trên 3 căn cứ: sự thật + pháp luật + sự bền bỉ. Có lẽ vì thế mà tôi được độc giả thương mến. Chúng ta có thể "lừa" độc giả qua vài bài viết, chứ lên đến cả trăm bài, không "lừa" được độc giả đâu. Nói điều này để nhắn với các nhà báo, blogger, facebooker rằng: "Văn là Người", nếu quý vị nào còn nghĩ rằng, có thể "lừa" được độc giả thì lầm to. Độc giả có thể không viết được như chúng ta, nhưng họ hiểu hết và cảm nhận được hết.

Thông tin, theo tôi biết, người ta chỉ phân loại tin giả mạo hay tin trung thực. Còn các bài bình luận, phân tích thì để độc giả người ta đánh giá. Tôi chỉ viết với 3 căn cứ nêu trên và không bao giờ gieo rắc hận thù, bạo lực hay bóp méo, xuyên tạc.

Tôi chân thành cám ơn RFA đã dành cuộc phỏng vấn này cho tôi và kính chúc quý độc giả xa gần năm mới nhiều sức khỏe.