khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Con tha cho người ta đi !




Cô gái nói với cha của mình :

- Tuần sau con và anh ấy sẽ kết hôn… Thưa ba…

- Thế thằng đó có nhà cửa đàng hoàng không?...

- Không ạ. Anh ấy ở nhà trọ.

- Nó có xe không ?

- Cũng không có. Anh ấy đi xe đạp.


- Bố mẹ nó thế nào ?

- Anh ấy mồ côi ạ

- Ở đời phải biết tích phúc, tích đức con ạ… Người đã khổ thế rồi thì con tha cho người ta đi, đừng làm khổ người ta nữa!

Nếu biết dza^.y ... thì...



Thế hệ cũ:

Cô gái tuổi băm, lấy chồng, sau đêm tân hôn ngồi khóc thút thít. Mẹ hỏi, cô trả lời: Biết lấy chồng sướng thế này con lấy từ hồi 15, hu..hu...



Thế hệ mới:

Cô gái tuổi băm, lấy chồng, sau đêm tân hôn ngồi khóc thút thít. Mẹ hỏi, cô trả lời: Biết lấy chồng cũng chỉ như này thì cần quái gì chồng, hu..hu...

SÁNG KIẾN CỦA ÔNG THỢ MÁY
















Một con số làm kinh ngạc. Có "KHỦNG"không?



Số người đọc bài: " TRÁI CÂY MIỀN NAM VIỆT NAM" làm ngạc nhiên!

Cảm ơn bác Khoa đã sưu tầm và gửi bài này cho trang blog cũa chúng ta.




Google said: "+1'd this post" means "I person clicked +1 on this post,".

Những điều không học được ở bất cứ trường đại học chính quy, ngay cả trường đại học KHKT-- MĐ. Có lẻ chỉ có ở trường đời hay trường đại học nhơn dân?



Trong vụ cướp nhà băng được cho là ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một tên cướp hét lên: "Tất cả đứng im, nên nhớ tiền thuộc về Nhà nước, còn mạng sống thuộc về chúng mày!"

Mọi người trong ngân hàng nghe xong liền im lặng nằm xuống.

Điều này được gọi là: "Cách thức khai tâm - Thay đổi những suy nghĩ theo lối mòn"

Có cô nhân viên nằm trên bàn trong tư thế khêu gợi, một tên cướp hét lên: "Làm ơn cư xử văn minh, chúng tôi là cướp chứ không phải những kẻ hiếp dâm!"

Điều này được gọi là "Hành xử chuyên nghiệp - Chỉ tập trung vào công việc mà bạn được huấn luyện!"

Khi tên cướp quay lại, một tên cướp trẻ hơn (có bằng MBA) nói với tên cướp già hơn (kẻ mới tốt nghiệp hết phổ thông): "Đại ca, có phải đếm xem chúng ta cướp được bao nhiêu?". Tên cướp già gằn giọng: "Mày ngu lắm, bao nhiêu tiền, đếm thế nào được? Đợi đi, tối nay TV sẽ nói chúng ta cướp được bao nhiêu!"

Điều này được gọi là: "Kinh nghiệm - Ngày nay thì kinh nghiệm quan trọng hơn giấy tờ, sách vở"

Sau khi băng cướp rời khỏi, giám đốc chi nhánh định gọi báo cảnh sát. Kế toán trưởng vội vã chạy đến, thì thầm vào tai ngài: "Đợi đã, hay để 5 triệu chúng ta biển thủ vào trong số bị băng cướp lấy mất!"

Điều này được gọi là: "Bơi theo dòng nước - Chuyển đổi những tình huống bất lợi trở thành thuận lợi"

Người giám đốc tự nhủ: "Vậy thật tuyệt nếu cứ mỗi tháng lại có một vụ cướp!"

Điều này được gọi là: "Hãy loại bỏ những điều khó chịu - Hạnh phúc là điều quan trọng nhất"

Ngày hôm sau, TV đưa tin 100 triệu đã bị cướp khỏi nhà băng. Những tên cướp đếm đi đếm lại thì chỉ có 20 triệu. Chúng rất giận dữ: "Chúng ta mạo hiểm mạng sống của mình chỉ để lấy 20 triệu, bọn chó lãnh đạo chỉ ngồi chơi mà cướp được 80 triệu. Đúng là học hành, có bằng cấp thì chúng nó được ngồi cái ghế đấy, cướp tiền siêu đẳng hơn chúng ta!"

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

FIRST KISSING





 
 
NỤ HÔN ĐẦU
Thơ Trần Dạ Từ


Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh cỏ biếc trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông
 
Trên môi ta vạn đóa hồng
Hôn em trời đất một lòng chứa chan
Tiếng cười đâu đó ròn tan
Nụ hôn ngày đó miên man một đời
 
Hôm nay chợt nhớ thương người
Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
Trưa vàng cỏ biếc vườn xanh
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa

Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Đốt sách -- Tác giả: Nguyễn Ngọc Chính

 

=====================================

 

dotsach00

“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.

Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.

Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.

Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.

Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.

Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.

Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.

Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo cảnh giác, lập trường”.

Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.

Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh
Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh

Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…

Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm…

Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê…. Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh…

Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh…
Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.

Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.

Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.

Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.

Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.

Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:

“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.

Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản…

Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’...”

Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).

Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog  http://hoanghaithuy.wordpress.com/ .
Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.

Nhật báo Tiếng Chuông
Nhật báo Tiếng Chuông

Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?

Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.

Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).

Tạp chí Sáng Tạo (1958)
Tạp chí Sáng Tạo (1958)

Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.

Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc…. Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.

Tạp chí Bách Khoa (1962)
Tạp chí Bách Khoa (1962)

Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc… Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.

Tạp chí Văn
Tạp chí Văn
T
ạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.

Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy…). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường…

Nhật báo Tiền Tuyến
Nhật báo Tiền Tuyến

Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.

Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang…

Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức...”

Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch… Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.

Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam… đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.

Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo… cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.

Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long… Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.

Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên Giang
Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên Giang

Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài’ văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Túy Hồng dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Túy Hồng dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng dưới mắt họa sĩ Chóe

Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.

Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.
Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…
Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.

Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.

Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.

Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”.
Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
T
ôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…

Sách do Asia Foundation tặng
Sách do Asia Foundation tặng
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng…

Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.
Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:

Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 6 – Thời điêu linh)

"Người Việt Nam thông minh, chăm chỉ, và anh hùng !!!" Bạn có hãnh diện là người Việt Nam không?





Trọng ân sư, hay sợ dân cử? -- trieuminh



Tôi cũng là cựu nữ sinh của trường [Trưng Vương]. Thật là xấu hổ khi biết điều này. Ðúng như ông phê phán cách đối xử của cô cựu nữ sinh là “vừa bậy vừa hỗn” “quá nịnh bợ những người ấy một cách không cần thiết và quay sang vô lễ với các cựu giáo sư có tuổi của mình”.

Vì họ cần lá phiếu của chúng ta nên đến tham dự thôi, họ không cần biết TRƯNG VƯƠNG là gì? Hai Bà Trưng là ai? Nhưng nếu họ biết, và biết thêm rằng hậu duệ của hai vị anh thư của Tổ Quốc đã đối xử với cựu giáo sư có tuổi của mình như vậy vì nể trọng những ông bà dân cử hơn ân sư của mình, thì họ nghĩ sao?

Thế nào là “Tôn Sư Trọng Ðạo,” và “không thầy đố mày làm nên,” cô cựu nữ sinh này nghĩ gì đây? Tổ chức lễ kỷ niệm thật “hoành tráng,” nhưng lại thất lễ với những cựu giáo sư của trường?

Nếu cô cựu nữ sinh này nghĩ những cựu giáo sư của trường không đáng được đối xử trịnh trọng thì sang năm không nên mời!

Xin nhắc lại lời kết của ông: “Ðuổi hai cô giáo cũ của trường đi ngồi chỗ khác thì vừa bậy vừa hỗn. Không thể tha được.”


Mặc cảm bị trị -- Ký Mục Gia Bùi Bảo Trúc

Mới đây, tại buổi sinh hoạt của hội cựu nữ sinh một trường trung học nọ, tôi được xếp cho ngồi cạnh hai cựu giáo sư của trường. Ðang sung sướng và hân hạnh được gặp hai nhà giáo khả kính, ôn lại một số chuyện cũ của thời đi học, thì niềm vui của tôi bị cắt đứt ngang. Một phụ nữ mà tôi nghĩ là một cựu nữ sinh của trường đến tận nơi, yêu cầu hai vị giáo sư này chuyển xuống ngồi ở một hàng ghế dưới để dành các ghế hàng đầu cho những người khách khác chưa tới. Tuy không biết những người khách chưa tới là ai nhưng tôi chắc không phải là ông bà Obama. Dẫu thế, tôi vẫn thấy rất khó chịu. Hai vị cựu giáo sư này không tự ý chiếm lấy hai chỗ của hàng ghế đầu. Cả hai được một cựu nữ sinh khác dẫn đến tận nơi mời ngồi xuống ghế, để rồi mấy phút sau, hai cụ bị bà cựu nữ sinh yêu cầu đổi xuống hàng ghế dưới, nhường chỗ cho người khác. Tôi bị cản ngay lúc ấy nên đã không nói được vài ba lời phải quấy với người đàn bà ấy. Mãi sau buổi lễ, tại một tiệm ăn, khi ngồi ăn với một số bạn bè, tôi mới nói lên được (thẳng vào mặt của bà ta) việc làm sai quấy của bà ta, việc làm mà tôi chắc chắn bất cứ ai nghe qua cũng thấy rất khó chịu.Trước hết, hai vị cựu giáo sư đã không tự ý ngồi xuống ở hàng ghế đầu, mà hai cụ đều đã được ban tổ chức đưa tới tận nơi. Nếu có lầm lẫn trong việc xếp chỗ (đưa hai cụ lên ngồi hàng ghế đầu) thì việc yêu cầu hai cụ đổi chỗ cũng đã là việc rất không nên. Ðằng này, hai cụ rất xứng đáng được mời ngồi ở hàng ghế đầu. Hai cụ đều là những người có tuổi. Ðã chắc gì những người khách chưa tới đó đáng được nể trọng hơn hai cụ về tuổi tác?

Hai cụ không thể bị đối xử như vậy. Hai cụ phải được dành cho những cách đối xử trân trọng hơn những người khách chưa tới. Giản dị là vì hai cụ đều là những người từng dậy ở cái trường có tổ chức cựu nữ sinh ấy.

Sau ít phút thì những người khách mời được dành cho hàng ghế đầu cũng lục đục kéo tới. Buổi lễ bắt đầu sau đó, và những người khách đó liền cười nói trò chuyện với nhau thoải mái bất kể nỗ lực thông dịch sang tiếng Anh của ban tổ chức. Tôi nhìn sang thì thấy mấy khuôn mặt đã gặp vài ba lần ở mấy buổi sinh hoạt khác. Họ là những đại diện của mấy khu vực thuộc địa phương, chứ chưa phải là cỡ tiểu bang, và lại càng không phải là cấp liên bang. Những người ấy, có người tuổi tác có thể chưa bằng con cái của hai vị cựu giáo sư. Những đóng góp của họ cho ngôi trường trung học cũ ở Việt Nam phải nói ngay là không có gì. Vậy mà họ được dành cho cách đối xử trịnh trọng hơn là cách đối xử mà người cựu nữ sinh kia dành cho hai cựu giáo sư. Bậy hết chỗ nói.

Kế đến, những người này được mời lên nói dăm ba câu và tặng cho hội cựu nữ sinh mấy tấm bằng khen (tiền chế) mà bất cứ một tổ chức nào mời họ đến, họ đều in ra để tặng cho có lệ. Có một tấm tưởng lục tặng cho hội thì in sai cả tên trường, thành trường TRUONG VUONG. Làm việc như thế thì họ coi ngôi trường của hội có ra cái gì đâu, mà họ lại vẫn được trọng vọng hơn là hai cụ giáo cũ của trường? Một phụ nữ dân cử khác thì trọ trẹ vài câu tiếng Việt đánh dấu sai bét, đọc sai lên sai xuống rồi quay ra cười ngặt nghẽo mãi. Hai người phụ nữ được mời lên sân khấu thì phục sức như vừa đi chợ về. Ðôi ba câu hát biểu không sửa soạn trước cùng với lối ăn mặc như vừa kể có phải là thái độ trân trọng đối với ngày hội của trường và cần được đối xử tử tế hơn là cách đối xử dành cho hai cựu giáo sư của trường không?

Tất cả, sau khi xuất hiện cho có lệ thì bỏ về ngay, trong khi đó, hai cô giáo cũ của trường thì ngồi lại đến tận phút chót và lại còn có quà bằng hiện kim không nhỏ cho quĩ hoạt động của trường. Trong khi đó, quà của những ông bà dân cử cho hội chỉ là mấy tờ tưởng lục gọi là ghi nhận việc làm của hội. Rồi liền tất tả biến ngay.

Như vậy, ai là người nên được đối xử tử tế hơn trong dịp này?

Nên nhớ những người đại diện đó cần chúng ta hơn là chúng ta cần họ. Họ cần phiếu của chúng ta. Nếu chúng ta không đi bầu, không bỏ phiếu cho họ thì họ không thể ngồi vào được những chiếc ghế dân cử đó. Bởi thế, không cần dành cho họ những đối xử đặc biệt nào, nhất là không được coi họ cao hơn là những cựu giáo sư của trường.

Thỉnh thoảng đi ngoài đường tôi nhìn thấy những chiếc bumper sticker dán trên cản của những chiếc xe chạy trên đường. Người hút thuốc, chống lại những luật chống hút thuốc thì khẳng định: I SMOKE AND I VOTE. Người chống phá thai thì I AM PRO LIFE AND I VOTE, người ủng hộ quyền sở hữu súng thì I HAVE GUNS AND I VOTE...

Tất cả những cái bumper sticker đó, tuy nghe thì hài hước, nhưng lại chính là những lời hăm dọa nhắm vào các ứng cử viên: chúng tôi có lá phiếu nên các ông các bà phải biết điều với chúng tôi...

Như vậy thì ai cần ai?

Họ mới là người cần và đến với chúng ta là vì họ cần lá phiếu của chúng ta. Nhưng chúng ta thì đã có thời, thời tuổi trẻ đi học của chúng ta, chúng ta đã rất cần các thầy cô của chúng ta. Vậy thì có cần phải quá nịnh bợ những người ấy một cách không cần thiết và quay sang vô lễ với các cựu giáo sư có tuổi của mình như cô cựu nữ sinh kia không?

Tôi nghĩ là không.

Nếu cần phải yêu cầu dời chỗ thì chính tôi mới là người mà bà cựu nữ sinh kia phải chiếu cố. Chứ đuổi hai cô giáo cũ của trường đi ngồi chỗ khác thì vừa bậy vừa hỗn. Không thể tha được

Chiều Làng Em -- Nhạc sĩ Trúc Phường Ca sĩ: Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Quế, Phương Hồng Ngọc



Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Nữ tiếp viên Vietnam Airlines bị bắt tại Nhật -- VOA Vietnamese




Giao Hữu với phân khoa bạn: RANH NGÔN VỀ ... NGU ! ---Nguyễn Thái Lai , Y5-YKMĐ

Nguyễn Thái Lai


Ngu mà nghĩ mình không Ngu thì đúng là Ngu.
Nhưng Ngu mà biết được mình Ngu thì đâu có Ngu .
Mình không Ngu là khi mình biết được mình Ngu. ...

Mà Ngu rồi thì làm sao tự biết được mình Ngu?
Nên nếu tự biết mình Ngu tức là mình không hề Ngu!

Tóm lại đứa nào dám nói mình Ngu thì chính nó mới là đứa Ngu,
nhưng nó Ngu làm sao nó biết mình Ngu ?!

Tui nói tui Ngu ! Thế bạn có Ngu không ???


U.S. Army's Presidential Salute Battery Performs 1812 Overture of Tchaikosky


The elite Presidential Salute Battery of the Army's 3rd U.S. Infantry Regiment, "The Old Guard" fires to the music of Tchaikovsky's 1812 Overture, performed by the U.S. Army Band & Chorus, during the annual summer concert at the Sylvan Theater on the grounds of the Washington Monument. The Battery fires four WWII vintage M5 anti-tank (field) guns. This video captures their performance from march-on to march-off. Impressive!





Nhớ ngày lễ Độc Lập Mỹ, 4 tháng 7 năm 2000 ở Washington, D.C. : súng đại bác nổ vang rền theo nhịp ban nhạc hòa tấu và ban hợp xướng kèm theo pháo bông bắn lên trời tỏa sáng một vùng trời trên sông Potomac in hệt như trong video clip ! 



SÁNG TRĂNG SUÔNG -- Nhà văn Hoàng Hải Thủy

  
Thiếu nữ ngủ ngày. Tranh Bùi Xuân Phái. Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm..
Thiếu nữ ngủ ngày. Tranh Bùi Xuân Phái. Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm..

Tháng Ba 2014,  mưa tuyết – chắc là lần mưa tuyết cuối cùng của mùa Đông Virginia 2014 – vừa đi qua Rừng Phong. Mưa tuyết đi qua nhưng tuyết còn ở lại trắng trời, trắng đất, trắng cây. Vợ chồng già líu ríu bên nhau trong căn phòng ấm. Già, cơm không là vấn đề. Vợ đan áo, chồng mò mẫm trên Internet.
Tìm được bài viết “Thi Ca Dục Ái trong Văn Học” của NhàBiên Khảo Trần Bích San. Thấy chuyện Lá Đa, Mõm Chó, Sự Đời, Hái Chè, Váy, Con Cúi..vv..; toàn chuyện hấp dẫn, bèn có  hứng muốn viết góp ý. Trước hết mời quí vị đọc:
Trần Bich San. “Thi ca dục ái trong văn học.”
Thi ca dục ái xuất hiện từ lâu trong văn chương truyền khẩu. Phong dao, tục ngữ, câu đố có những bài, những câu liên quan đến tính dục nam nữ . Loại tác văn này không bóng bảy như văn chương chữ viết mà đôi khi còn thô lỗ, trắng trợn, tục tằn nữa. Thực ra đó chỉ là phản ảnh đặc tính nôm na, mộc mạc, tượng hình và cụ thể của nền văn học dân gian:

Tranh Bùi Xuân Phái. Vịnh Quạt Giấy: Mười bẩy hay là mười tám đây?
Tranh Bùi Xuân Phái. Vịnh Quạt Giấy: Mười bẩy hay là mười tám đây?
 
Sáng trăng em tưởng tối trờiNgồi buồn em để cái sự đời em raSự đời như chiếc lá đaĐen hơn mõm chó, chém cha cái sự đời.

hoặc:

Hôm qua em đi hái chèGặp thằng phải gió nó đè em raEm lạy nó cũng chẳng thaNó cứ ấn, cứ nhét cái đầu cha nó vàoCái gì như cái củ nâuCái gì như thể cái cần câu nó gật gù…
(Phong Dao)
Văn chương chữ nghĩa bề bềThần l.. ám ảnh cũng mê mẩn đời

hoặc:

Không giàu thì cũng đẹp giaiKhông thông kinh sử cũng dài con Q.
(Tục Ngữ)
Canh một thì trải chiếu raCanh hai bóp vú, canh ba sờ l..Canh tư thì lắc xom xomCanh năm cuộn chiếu ẵm con mà về
(Câu đố tả người kéo vó ban đêm)

Từ ngàn xưa đạo Nho bao trùm xã hội Việt Nam, quan hệ tình dục bị coi là thô tục nên văn gia tránh không đề cập tới. Nội dung thơ văn không hợp với đạo lý thánh hiền đều bị lên án khắt khe như “đàn ông chớ kể Phan Trần, đàn bà chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều”. Truyện Phan Trần có đoạn tả Phan Sinh ốm tương tư, si tình đến toan tự tử. Với người xưa, nam nhi mà nhu nhược, ủy mị như thế là điều không thể chấp nhận được. Thúy Kiều vượt vòng lễ giáo đang đêm lẻn sang nhà Kim Trọng tình tự là điều luân lý Khổng Mạnh không cho phép. Truyện Kiều bị lên án là dâm ô, khiêu khích tình dục vì có đoạn tả nàng Kiều tắm và lúc Kiều thất thân với Mã Giám Sinh tuy rằng chỉ với những nét ước lệ, mờ nhạt thiếu tính cách cụ thể sinh động:

Buồng the phải buổi thong dongThang lan rủ bức trướng hồng tắm hoaRõ ràng trong ngọc trắng ngàDầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên
(Kiều tắm)
 
Tiếc thay một đóa trà miCon ong đã tỏ đường đi lối vềMột cơn mưa gió não nềThương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
(Mã Giám Sinh phá trinh Kiều)
 
Các thi gia có tư tưởng phóng khoáng như Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khuyến cũng chỉ dám phớt qua:

Giang sơn một gánh giữa đồngThuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ không.
(Nguyễn Công Trứ)
 
Đàn bà con gái sắn quần lênCái gì trăng trắng như con cúi
(Nguyễn Khuyến, Chỗ Lội Làng Ngang)
 
Hồ Xuân Hương, nhà thơ đầu tiên vượt trên cấm cản của xã hội, mô tả thật sống động cuộc mây mưa giữa nam nữ :

Trai co gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng tá?Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không
(Đánh Đu)
 
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựaThiếp vội vàng vướn phứa tịnh lênHai xe hà chàng gác hai bênThiếp sợ bí thiếp liền ghểnh sĩChàng lừa thiếp đương cơn bất ýĐem chốt đầu dú dí vô cung…
(Đánh Cờ)
 
Bà không ngại ngùng ca ngợi vẻ đẹp thể chất con người. Những bộ phận kín phụ nữ được diễn tả rõ ràng bằng lời thơ đầy nghệ thuật:

Thân em như quả mít trên câyDa nó sù sì, múi nó dàyQuân tử có thương thì đóng nõXin đừng mân mó nhựa ra tay
(Quả Mít)
 
Cỏ gà lún phún leo quanh mépCá giếc le te lách giữa dòng
(Giếng Nước)
 
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậmMột lạch đào nguyên nước chửa thông
(Thiếu Nữ Ngủ Ngày)
 
Thi ca dục ái Hồ Xuân Hương được lồng dưới hình thức ẩn dụ. Chính phần ẩn dụ chứa đựng những điều bị cho là thô tục, lả lơi, dâm dục có hại cho thế đạo nhân tâm. Thi sĩ Tản Đà lên án như sau: “Người ta thường có câu Thi Trung Hữu Họa, nghĩa là trong thơ có tranh. Như thơ Hồ Xuân Hưong lại là Thi Trung Hữu Quỉ, nghĩa là trong thơ có quỉ (An Nam Tạp Chí số 3 ra ngày 1/10/1932). Dương Quảng Hàm viết trong Quốc Văn Trích Diễm: “Suốt tập thơ Hồ Xuân Hương không mấy bài là không có ý lả lơi, dầu tả cảnh gì vật gì cũng vậy” (Quốc Văn Trích Diễm, chương 10).
Trong nền văn học chữ quốc ngữ, thời tiền chiến sự hiện diện của thi ca dục ái chỉ thấp thoáng trong thơ Hàn Mặc Tử :

Tiếng ca ngắt. Cành lá rung rinhMột nường con gái trông xinh xinhỐng quần vo xắn lên đầu gốiDa thịt, trời ơí trắng rợn mình…
(Thi tập Gái Quê, bài Nụ Cười)
 
Thi ca dục ái bắt đầu rõ nét hơn trong thơ Bích Khê. “Sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết.” (Hàn Mặc Tử, Tựa tập thơ Tinh Huyết của Bích Khê):

Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữÔ tiên nương! nàng lại ngự nơi này?Nàng ở mô? xiêm áo bỏ đâu đây?Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễmNàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thườngLệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọcĐêm u huyền ngủ mơ trên mái tócVài chút trăng say đọng ở làn môiHai vú nàng, hai vú nàng, chao ôi !Cho tôi mút một giòng sông ngọt lộngVà ô kìa một tòa hoa nghiêm độngTay run run hãm lại cánh tình siHai tay nàng đã nở ngọc lưu lyHai chân nở màu sen ẻo lảCho tôi nàng, hãy cho tôi tất cả !…
(Tranh Lõa Thể)
 
Sang thế kỷ 21 thi ca dục ái là sự kết hợp nghệ thuật thơ Hồ Xuân Huơng, tính cách phong dao cận nhân tình và thêm chất thực tế trần trụi chói gắt của thi ca hiện đại. Nhà thơ công khai mô tả, ca ngợi vẻ đẹp lành mạnh tràn đầy nhựa sống, quyến rũ của thân thể con người cả hai phái nam nữ. Các điều đạo đức lánh xa che mặt được nhà thơ biến thành những đối tượng hấp dẫn. Tính dục mang tính cách tất yếu, một bản chất tự nhiên như ăn ngủ, là hạnh phúc hào hứng thực tế nhân loại. Chuyện ái ân nam nữ trong thơ dục ái dồi dào sức sống, bừng bừng sinh lực, đầy ắp không khí tươi mát lành mạnh đất trời. Con người và thiên nhiên hòa nhập, tương ứng, hài hòa với nhau. Thiên nhiên chứa đựng sinh lực con người. Con người thấm đượm màu sắc rực rỡ tươi thắm thiên nhiên:

Trong gió sớm cuộc hẹn hò cảnh khácRạch sậy lau che kín chiếc thuyền câuDành riêng em hưởng nguyên vẹn tình đầuĐang trượt té qua cuộc tình nhục cảmÔi thế sự, ôi cuộc đời bụi cám !Có nghĩa gì bằng dâng hiến tình yêu ?Trái cấm dành người dám bạo dám liềuTòa hoan lạc thường có ngoài cổ tích.Hai thân thể trần truồng cùng quấn quítNụ hôn nồng, môi ham hố cơn sayChồi nhân sinh gay gắt đỏ, giương dàiCứ hăm hở chui huyệt sâu khoái lạc.Trong gió sớm ôm mông chàng thật sátEm lắng nghe thân ngún lửa từng cơnChàng vẫy vùng, thọc ngoáy thật sâu hơnCùng bay bổng lên thiên đường cảm giácTrong gió sớm nhựa tinh chàng thơm ngátTuôn vào em từng đợt quánh và trơnEm tặng chàng những vết máu tươi sonKhi chàng sống bản năng con thú đực
(Hồ Trường An, Trong Gió Sớm)
 
Thơ dục ái không hoằng dương nhục cảm. Nhà thơ sử dụng nó như phương tiện chuyên chở nghệ thuật, gây thích thú thưởng ngoạn, kích thích giác quan thẩm mỹ, tạo không khí trân trọng nghệ thuật. Tình yêu trong thơ dục ái là sự thăng hoa toàn diện, triệt để, vô hạn giữa tâm hồn và thể xác, giữa cá nhân với quê hương, giữa con người với thiên nhiên:

Rồi đó một trang đời mở rộngAnh đưa em dưới vòm lá đêmTham lam môi nóng ghì môi ướtTay cứng nhồi xoa tảng ngực mềmĐưa đẩy em trong một chiếc giườngXem thường hiểm họa đạp tai ươngKhi nhìn thân thể anh ngồn ngộnDa thịt nồng nàn như bốc hươngEm nghe bật vỡ nơi sâu kínMáu thắm tuôn ra vậy cũng đànhKhông biết thiên đường hay địa ngụcKhi nằm rạo rực dưới thân anh
(Hồ Trường An, Xa Bến Thiên Đường)
 
Thiên-đường-huyền-thoại vốn là không gian ảo chỉ hiện hữu trong ước mơ, nơi hứa hẹn hạïnh phúc vĩnh cửu nhưng xưa mai có ai tới được ngưỡng cửa thiên đường ? Thiên-đường-dục-ái là không gian có thật. Trong suốt hành trình đời sống hầu như mọi người ai cũng hơn một lần bước vào. Con thuyền-thơ-dục-ái chở những người yêu nhau chân chính trở lại tìm kiếm không gian và thời gian mà họ đã sống đến tận cùng giây phút tuyệt vời ngút lửa của hoan lạc thân xác trên giòng sông đam mê có thực. Thi ca dục ái là tiếng lòng nức nở và hoài niệm thiết tha của những tâm hồn nghệ sĩ đích thực. Một thời đại mới trong thi ca Việt đã mở đầu và dục-ái-ca thực sự chắp cánh bay bổng rạo rực ca ngợi hạnh phúc trần tục, thiên đường có thật của con người.

TRẦN BÍCH SAN
CTHĐ Sao Y Bản Chánh.
Công Tử Hà Đông bàn loạn: Xin Nhà Biên Khảo cho tôi góp vài ý mọn. Tôi không nói quyết tôi viết đúng, chỉ là góp ý thôi.

Chuyện tôi nên góp ý là chuyện “Sáng trăng.”
TBSan:
Sáng trăng em tưởng tối trờiNgồi buồn em để cái sự đời em raSự đời như chiếc lá đaĐen hơn mõm chó, chém cha cái sự đời.
 
Lời phong dao tôi biết từ năm tôi 12 tuổi:

Sáng trăng suông em tưởng tối trời.Em ngồi em để cái sự đời em ra..
 
Kính thưa: Phải là “sáng trăng suông” em mới tưởng là tối trời. Nếu trời sáng trăng, em không thể tưởng là tối trời, đang sáng trăng em tưởng tối trời là không có lý. Nhiều người Việt tuổi đời năm nay dưới Năm Bó, Sáu Bó,  không biết, không hiểu  “sáng trăng suông” là gì, tại sao lại gọi là “sáng trăng suông?”

Sáng trăng suông” theo sự biết không bảo đảm trúng trật, tức không quyết là đúng, cũng không quyết là trật, là sai, của kẻ viết CTHĐ là : đêm có trăng nhưng trăng bị mây mù che kín cả bầu trời, trăng không lộ ra, người không thấy trăng nhưng không gian đêm vẫn có ánh trăng sáng mờ mờ. Khi sáng trăng suông, ta không nhìn thấy mặt trăng. Phải ở đồng quê ta mới có thể thấy sáng trăng suông. Ở thành phố đêm có đèn điện, ta không thể thấy sáng trăng suông.

Tục Ngữ Phong Dao. Tác giả Nguyễn Văn Ngọc. Tập Dưới. Trang 182:

Sáng trăng suông, em nghĩ tối trời,Em ngồi em đề cái sự đời em ra.Sự đời bằng cái lá đa,Đen như mõm chó, chém cha sự đời.

Và Trang 128:
 
Sáng trăng suôngSáng cả vườn đào, sáng cả vườn chanh.Ba bốn cô đằng ấy có cô nào còn không?Có một cô thật đích cô chưa có chồng,Cho anh ghé chút làm chồng. Nên chăng?
Sáng trăng suông sáng cả cái đêm hôm rằm.Nửa đêm về sáng trăng bằng ngọn tre.Em có thương anh thì thương cho vẹn mọi bề..

Phải là “sáng trăng suông” em mới tưởng là tối trời. Chỉ trong 4 câu thấy có ba hình ảnh gợi cảm: Sự đời, Lá Đa, Mõm Chó. Chuyện théc méc là “Sự đời, Lá Đa, Mõm Chó ” ba cái có tội gì mà chúng bị  người đe dọa “chém cha.” Oan thay cho Lá Đa.

Em phải mặc váy thì khi em ngồi, sáng trăng suông em tưởng tối trời, em mới để cái sự đời của em ra được. Em mặc quần thì vô phương. Phải viết rõ là em gái quê em mặc váy, em “không để nó ra,” nó là “cái sự đời” của em, nó vẫn ở trong đó nhưng vì em ngồi hớ hênh  – ngồi bệt mà dạng háng, tức banh hai chân ra — nên người ta nhìn vào, người ta thấy “nó.” Viết lại: Em mặc quần thì vô phương. Em mặc váy mà em đứng em cũng không thể để cái sự đời của em ra được.

Đến đây có vấn đề Váy và Quần Con Gái, Đàn Bà. Sử ghi: Ngày xưa, đàn bà Bắc kỳ mặc váy. Bắc Kỳ đây là từ Ải Nam Quan vào đến tỉnh Quảng Bình. Viết cách khác: từ Sông Gianh trở ra bắc. Từ Quảng Bình vào nam, đàn bà mặc quần. Ngày xưa đây là thời Thực Dân Pháp chưa đến nước Việt Nam. Cũng Sử ghi: Năm 1882 Vua Minh Mạng hạ chiếu, tức ra lệnh:

Cấm đàn bà mặc váy, lại tức: Đàn bà Bắc kỳ phải mặc quần.

Tháng Sáu có chiếu vua raCấm quần không đáy, người ta hãi hùng.Không đi thì chợ không đông.Đi thì bóc lột quần chồng, sao đang.
 
Lệnh của Vua Minh Mạng không được nữ thần dân Bắc kỳ tuân theo. Vua cấm đàn bà mặc váy, đàn bà Bắc kỳ vẫn cứ mặc váy. Những năm 1947 đến 1950, kẻ viết những dòng chữ này sống trong những làng quê ba tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, thấy tận mắt 90/100 đàn bà miền quê mặc váy. Chỉ môt số cô gái trẻ, sinh sau năm 1930, mới mặc quần.

Chuyện năm xưa tôi trẻ, 14, 15 tuổi, tuổi sắp dậy thì, làm liên lạc viên Cục Tình Báo, khi đi ngang qua những cánh đồng chiêm, thấy những cô gái quê 15, 16, 17, 18 tuổi cào cỏ trong những thửa ruộng ven đường, nước ruộng lên đến đầu gối các cô, váy các cô sắn cao để khỏi bị ngập nước, chú liên lạc viên  có ý đi thật chậm, chờ mong có làn gió thổi qua, làm váy các cô tốc lên, cho chú được nhìn – dù chỉ thoáng qua trong hai, ba sát-na – cái Sự Đời của các cô, “cái” chưa bao giờ chú nhìn thấy. Nhưng không lần nào chú được nhìn. Váy các cô là váy sồi, dầy và nặng, gió có là bão cũng không thể làm cho tung lên. Các cô còn cẩn thận đục hai lỗ nhỏ ở gấu váy trước sau, dùng cái lạt tre buộc dính lại. Gió có thốc vô, các cô ngồi bệt có hớ hênh, có dạng háng, váy các cô cũng không mở ra, không ai có thể trông thấy cái Lá Đa của các cô.

Théc méc: đàn bà Việt mặc váy từ miền Bắc đi xuống miền Nam, tại sao đến miền Trung lại bỏ mặc váy để mặc quần? Phải có nguyên nhân gì chứ? Ta không biết đó thôi. Váy Bắc Kỳ là váy sồi. sồi dệt bằng những sợi tơ tằm thô, nên sồi dầy và cứng ngắc. Sồi chỉ có thể làm váy, không thể may thành quần. Phải chăng vì thế mà  Bắc Kỳ có váy sồi.

Năm xưa tôi trẻ – trước năm 1950 – ngoài câu đố “Cái thúng mà thủng hai đầu. Bên ta thì có, bên Tầu thì không,” cái Váy còn có những tên “Sống,”: Dậy đĩ vén sống. Người Bắc không nói “Dậy đĩ vén váy” mà nói “Dậy đĩ vén sống;” và cái tên “Pằng-tà-lồng Ộp, Bùng Rền;” những năm 1965 thế giới có cái mode – dường như phát xuất từ Paris – mode minijupe. Váy ngắn. Năm xưa ấy Mini Jíp có đến Sài Gòn.

TB San:
Hôm qua em đi hái chèGặp thằng phải gió nó đè em raEm lạy nó cũng chẳng thaNó cứ ấn, cứ nhét cái đầu cha nó vàoCái gì như cái củ nâuCái gì như thể cái cần câu nó gật gù…
CTHĐ:
Hôm qua lên núi hái chè.Gặp thằng phải gió nó đè em ra.Lậy van nó cũng chẳng tha.Nó đem nó nhét cái mả cha nó vào.

Trong Tục Ngữ Phong Dao NV Ngọc không có bài “Hôm qua lên núi hái chè..”
Nhắc lại và nhấn mạnh: Chỉ khi mặc váy đàn bà, con gái mới để cho người đời nhìn thấy cái Sự Đời Lá Đa. Phụ nữ Á, Phụ nữ Âu Mỹ mặc váy cũng để hở Sự Đời như nhau. Chỉ có khác là phụ nữ Âu Mỹ mặc slip, phụ nữ Á châu ở trần. Bà Hillary Clinton khi là First Lady có lần – mặc váy – ngồi hớ hênh bị anh Phó Nháy chụp ảnh bà để lộ cái slip. Từ đó người ta thấy bà Hillary Clinton chuyên mặc quần.

Tennis không ăn nhậu gì đến “Sáng trăng suông,” Tennis ăn nhậu đến “Váy.” Từ năm 1980 mỗi năm qua quần short của nam đấu thủ Tennis một dài ra, xuống đầu gối, mỗi năm qua váy của nữ đấu thủ Tennis một ngắn đi và cao lên. Hai Em Tennis Anna Kournikova. Maria Sharapova đều có ảnh ngồi ở sân quần để lộ slip. Từ đó – tôi, CTHĐ – thấy mỗi lần nghỉ vài phút giữa trận đấu, vào ghế ngồi nghỉ, chưa ngồi Maria Sharapova đã cầm cái khăn bông phủ lên đùi nàng, để che cái Sự Đời của nàng.
Chỗ lội làng Ngang:

Cái gì trắng trắng như con cúi?:

Théc méc: Con cúi là con gì? Từ lâu tôi – CTHĐ – vẫn théc méc về chuyện “con Cúi.” Trong mấy quyển Tự điển ở Rừng Phong tìm không thấy có “con Cúi.”  “Trăng trắng” chỉ là “bẹn.” Cái Lá Đa Sự Đời nó phải đen đen. Ông Cuội phải nhìn thấy cái Lá Đa  đen đen ông Cuội mới có thể mỉm miệng cười.

Quí vị đọc bài này ai biết “con Cúi” là con gì, hình dáng nó ra sao, xin cho mọi người cùng biết.

Theo tôi: “Đàn bà đến đó sắn váy lên.”
Đánh đu.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song song.

Théc méc: Bốn mảnh quần hồng: Trai mặc quần hồng? Đùi trai cũng là đùi ngọc?
Tiếng “Suông” trong Thơ Tản Đà.
 
Đêm suông phủ Vĩnh.
 
Đêm suông năm bẩy cái suông suồng.Suông rượu, suông tình, bạn cũng suông.Một bức mành con coi ngán nỗi.Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng.Một vầng trăng khuất đi mà đứng,Một lá màn treo cuốn lại buông.Ngồi hết đêm suông suông chẳng hết.Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông.
Theo tôi “trăng khuyết”, không phải “trăng khuất.”
TB San:
Tiếc thay một đóa trà miCon ong đã tỏ đường đi lối vềMột cơn mưa gió não nềThương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương
CTHĐ: Một cơn mưa gió nặng nề.
Những năm 1981, 1982 sống buồn quá đỗi ở Sài Gòn Cờ Máu., tôi làm bốn câu:
Tối trời em tưởng trăng thanhEm ngồi em để  Sao Vành em ra.Sao Vành như cái lá đa.Đen hơn mõm chó. Chém cha Sao Vành.