khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016

30/4/2016: Tổ Quốc chưa bước ra cơn đau!







Nguyễn Hữu Hội và ngày 30/4/2016





Cầu nguyện cho những đồng bào bị chết vì lý tưởng Tự Do sau ngày 30/4/1975 ...
Quê Hương tôi đâu?? buồn ...như mới xảy ra qua !!



Làm sao để đóng góp cho đất nước?







PHÓNG VIÊN BÁO TUỔI TRẺ(THÀNH HỒ)PHỎNG VẤN GS.TSKH LÊ HUY BÁ VỀ VỤ CÁ CHẾT BIỂN ĐÔNG







Ba Dũng làm hề ở Paris, và Tư Sang cúi mọp người xin làm tay sai Tàu Cộng



 
 
 





 



 

Quảng Bình sáng 30/04/2016: Ngư dân làng biển Xuân Hòa, xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch biểu tình: Hãy trả lại biển sạch cho chúng tôi










Tường thuật ngư dân Quảng Bình biểu tình đòi quyền lợi vào ngày 29.04.2016




Đề nghị đóng thùng cá chết gửi về An Nam Đô Hộ Phủ của Trọng Lú






Sài Gòn giải phóng tôi - Tác giả Nguyễn Quang Lập





Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kì diệu.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.

Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.

Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.

Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
 
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.

Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.

Trọng Lú, tay sai của Formosa Hà Tĩnh?



Một lần nữa sau cuộc biểu tình lên đến hàng chục ngàn người phản đối giàn khoan Hải Dương 981 vào giữa năm 2014, mạng xã hội đang dậy sóng những lời kêu gọi biểu tình phản đối Formosa vào ngày chủ nhật 1/5 tới đây.

Tại sao “trung ương” chỉ đạo xử lý quá nhanh và quá nghiêm vụ án khởi tố oan chủ quán cà phê Xin Chào ở TP.HCM, trong khi một sự kiện nghiêm trọng liên quan đến môi trường - xã hội gây hậu quả ghê gớm và bị dân chúng phản kháng mạnh mẽ hơn nhiều là vụ “cá chết Formosa” ở Hà Tĩnh vào cùng thời gian thì lại được xử lý quá chậm và còn cho thấy có những dấu hiệu “bảo kê cao cấp”?
Tại sao liên quan đến vụ “cá chết Formosa”, Tổng Bí thư Trọng lại thực hiện một chuyến “kiểm tra tiến độ dự án Formosa” đầy bất thường, nếu không nói việc một tổng bí thư bận rộn trăm công nghìn việc lại đi kiểm tra tiến độ của một công trình là… rất vớ vẩn?
Câu hỏi cuối cùng là: Formosa đang thuộc về quốc tịch nào? Liệu có một lực lượng chính trị đủ mạnh và đủ hiểm ở Việt Nam “chống lưng” cho Formosa, hoặc nói cách khác là làm “bức tường” cho doanh nghiệp quá tai tiếng về ô nhiễm môi trường và còn có những dấu hiệu khuất tất về chính trị này?   

‘Xin Chào’: Lấy điểm với dân hay ‘làm nhân sự’?
Gần cuối tháng 4/2016, chỉ một tuần sau khi báo chí nhà nước, đặc biệt các báo trung ương loan tải về vụ chủ quán cà phê Xin Chào bị Công an Huyện Bình Chánh khởi tố cực kỳ vô lý, chính trưởng công an huyện lỵ này là Đại tá Nguyễn Văn Quý đã bị tạm đình chỉ công tác. Quyết định này được đưa ra từ cuộc họp ngày 25/4 của Ban thường vụ Đảng ủy Ban giám đốc Công an TP.HCM.  
Phó đội cảnh sát điều tra Kinh tế và Chức vụ thuộc Công an Bình Chánh - Thiếu tá Nguyễn Hoàng Tuấn - cũng bị cho là có sai phạm nên cũng bị tạm đình chỉ.
Sự kiện trên là hiếm có tiền lệ ở Sài Gòn - địa phương mà từ rất nhiều năm qua bị dư luận xã hội xem là “đất” của Bí thư thành ủy Lê Thanh Hải và đã xảy ra quá nhiều bất công công quyền cùng nạn công an trị.
Cũng trong nhiều năm qua, báo chí đã nhiều lần đăng tải về những trường hợp doanh nhân, doanh nghiệp và người làm ăn cá thể phải chịu oan ức từ bộ máy hành chính và ngành công an, nhưng hệ thống công quyền vẫn hầu như chìm vào bóng đêm trù mưu tính kế. Cũng không ít trường hợp doanh nhân công khai hoặc âm thầm phản ánh về việc bị công an khởi tố và bắt tạm giữ để điều tra, nhưng thực ra đó lại là cách để một số công an viên tìm cách tống tiền doanh nghiệp. Sau khi “chung chi” đủ, doanh nhân được thả ra với cam kết không khiếu nại hay tố cáo cơ quan hoặc cán bộ công an.  
Nhìn lại “hoàn cảnh lịch sử” như thế mới thấy, việc Trung tướng giám đốc công an TP.HCM Lê Đông Phong buộc phải ra lệnh tạm đình chỉ công tác cấp dưới trực tiếp của mình là Trưởng công an huyện Bình Chánh có thể cho thấy có một sức ép đủ lớn từ “trung ương” đối với công an thành phố này.
Một động thái cần chú ý từ cấp “trung ương” là ngay sau khi được điều động từ Ban Nội chính trung ương sang nhậm chức Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ông Lê Minh Trí đã rất mạnh tay yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân TP.HCM tạm đình chỉ một phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh. 
Trước khi ra Hà Nội đảm nhiệm chức Phó ban Nội chính trung ương, ông Lê Minh Trí là “người miền Nam”. Quá trình của ông xuất thân từ ngành công an, là thư ký cho ông Võ Viết Thanh vào thời ông Bảy Thanh là chủ tịch TP.HCM. Sau khi ông Bảy Thanh nghỉ, ông Trí “lên” dần đến chức phó chủ tịch Ủy ban nhân dân TP.HCM. Nhưng tương tự trường hợp ông Lê Mạnh Hà (con trai cựu chủ tịch nước Lê Đức Anh), ông Trí đã không thể “trụ” được ở TP.HCM mà nghe nói do không được lòng “Anh Hai” (Bí thư Lê Thanh Hải), bởi thế đã “bắn” ra trung ương. Với quá trình này, hẳn ông Lê Minh Trí là người rất am tường về các ngóc ngách chính trường và tình hình “vây cánh” tại thành phố này.
Một chi tiết đáng chú ý khác là trong vụ Xin Chào, vai trò của tân bí thư thành ủy TP.HCM Đinh La Thăng khá mờ nhạt. Tựu trung, ông Thăng chỉ có một bút phê có vẻ nước đôi yêu cầu đối với Công an thành phố giải quyết vụ Xin Chào - khác hẳn lối chỉ đạo miệng quá sức ồn ào của chính ông trong khoảng thời gian hơn một tháng tính từ ngày nhậm chức bí thư thành ủy TP.HCM từ trước Tết nguyên đán 2016.
Nhưng tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lại thình lình qua mặt ông Thăng. Thủ tướng Phúc đã khiến dư luận ngạc nhiên bằng một văn bản của Văn phòng chính phủ truyền đạt ý kiến ông, yêu cầu dừng ngay vụ khởi tố chủ nhân quán Xin Chào.
Hiển nhiên, “trung ương” đã bỏ qua vai trò “đầu tàu” của TP.HCM để ra lệnh thị uy. Toàn bộ giới lãnh đạo của TP.HCM, đặc biệt là Công an TP.HCM và kể cả Bí thư Thăng, đã bị “mất mặt”. 
Có dư luận đoan chắc rằng vào thời “hậu Lê Thanh Hải” tất phải diễn ra những cái hậu dành cho lớp đàn em của ông Hải - được cho là phủ rộng khắp các sở ngành và quân huyện TP.HCM. Vụ Xin Chào chỉ là một cái cớ để nhẹ nhất là “luân chuyển cán bộ”.
Cũng có dư luận cho rằng tân thủ tướng và có thể cả tổng bí thư muốn lấy điểm với dân.
Chỉ có điều, sự tréo ngoe là trong lúc “làm” quá mạnh trong vụ Xin Chào, “trung ương” lại để vụ “cá chết Formosa” kéo dài đến gần cả tháng trời mà vẫn không có động thái xử lý dứt khoát nào.
Đụng “tường” chăng?
‘Bức tường’ nào?
Còn lâu mới chấm hết, dư luận xã hội đang ồn ào và bức bối về việc Tổng Bí thư Trọng "bỗng dưng kiểm tra tiến độ Formosa", mà về thực chất là một cách khiến các bộ ngành phải "vuốt mặt nể mũi" để không dám thẳng tay điều tra và xử lý doanh nghiệp Formosa xả nước thải kịch độc gây chết cá hàng loạt khiến điêu đứng dân sinh.
Không những không thăm hỏi ngư dân miền Trung như đã từng vào Nam vấn an nông dân ở miền Tây trong đợt hạn hán và nhiễm mặn vào tháng 3/2016, ông Nguyễn Phú Trọng còn không một lời hỏi thăm tình cảnh ngư dân Hà Tĩnh sống chết ra sao.
Cũng có dư luận cho rằng “trung ương” quyết định làm mạnh vụ Xin Chào là nhằm hướng công luận vào vụ việc này để cho thấy đảng cùng chính phủ luôn quan tâm và bảo vệ quyền lợi của người dân, doanh nghiệp, thay vì để công luận rúng động phẫn nộ bởi vụ “cá chết Formosa”.
Hồi năm 2011, Formosa đã là cái tên khiến nhiều giáo dân Hà Tĩnh phải nổi giận. Không những gây ảnh hưởng về môi trường làm ăn của ngư dân, Formosa còn “thuê” công an địa phương tìm cách trấn áp sự phản kháng của dân chúng. Kết quả sau nhiều ngày chịu đựng, giáo dân đã bắt 5 công an, nhốt lại cả ngày mà chính quyền không dám phản ứng mạnh. Chỉ nhờ có sự can thiệp của linh mục giáo xứ, 5 công an mới được các giáo dân thả ra.
Formosa cũng là một trong những cái tên chịu nhiều tai tiếng trên thế giới về hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường.
Năm 2014, Formosa Hà Tĩnh, dù chỉ là một doanh nghiệp, còn gửi một công văn cho Chính phủ Việt Nam đề xuất thành lập đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng.
Tại sao quá nhiều ưu đãi được dành cho Formosa Hà Tĩnh?
Người ta đang tự hỏi Formosa Hà Tĩnh là của ai?
Theo một số tin tức không chính thức, với khởi đầu đăng ký là doanh nghiệp 100% vốn Đài Loan, nhưng điều có vẻ quái lạ là cho đến nay Formosa Hà Tĩnh không còn như ban đầu. Trong quá trình hoạt động, Formosa Hà Tĩnh đã chuyển nhượng vốn, nhưng thông tin về đối tác được chuyển nhượng đã không hề được công bố trên trang web của doanh nghiệp này.
Cũng đã xuất hiện một lời đồn đoán khác: đối tác chuyển nhượng của Formosa Hà Tĩnh chính là một doanh nghiệp Trung Quốc.
Nếu thông tin trên là đúng, bản chất vấn đề sẽ hoàn toàn khác: Formosa Hà Tĩnh trở thành cái tên đặc biệt “nhạy cảm” không chỉ về vấn đề môi trường và xã hội, mà còn có thể liên quan đến cả những mầm mống đang gây ra xung đột giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong vùng lãnh hải Việt Nam ở Biển Đông
Ông Nguyễn Phú Trọng, với tư cách là một tổng bí thư làm thay hành pháp bằng việc “kiểm tra tiến độ Formosa”, sẽ giải thích ra sao trước công luận trong nước và quốc tế về mối liên hệ hết sức nhạy cảm trên, và cả về chuyến thị sát “không biết để làm gì” của bản thân ông tại Formosa ngay trong thời gian cá chết trắng biển?
Biểu hiện mới nhất là bất chấp chuyến thị sát Formosa của Tổng Bí thư Trọng nhằm mục đích hoặc mang ẩn ý gì, doanh nghiệp bị xem “có yếu tố Trung Quốc” này vẫn trắng trợn tuyên bố “không liên can” đến vụ cá chết hàng loạt ở 4 tỉnh miền Trung, khiến rất nhiều người dân và trí thức Việt đang hết sức phẫn nộ và phản ứng.
Một lần nữa sau cuộc biểu tình lên đến hàng chục ngàn người phản đối giàn khoan Hải Dương 981 vào giữa năm 2014, mạng xã hội đang vang lên những lời kêu gọi biểu tình phản đối Formosa vào ngày chủ nhật 1/5 tới đây.
 

THẢM HỌA MÔI SINH TẠI VŨNG ÁNG CÓ XIN PHÉP - Tác giả Vũ Thạch


Chỉ đến khi một số ngư dân phát hiện ống thải dưới lòng biển, phát hiện cảnh chất độc tuông xối xả từ miệng ống và phát hiện cảnh chết sạch tất cả mọi sinh vật, thực vật trong toàn vùng, nhà nước mới ngưng phóng ra các lý cớ vớ vẩn trên báo đài về hiện tượng cá chết trắng bờ -- từ lý do bão tố trên trời, đến chất độc do tàu thuyền thả trên mặt biển, đến sóng siêu âm do ai đó phát dưới lòng biển. Nghĩa là đã cố đẩy vấn đề càng xa khu công nghiệp Vũng Áng càng tốt.
 
Nay khi không còn có thể che đậy đường ống thải dài 1 cây số rưỡi đó nữa, các quan chức lại nhanh chóng cho họp báo để minh định việc công ty Formosa (vốn Đài Loan & Trung Quốc) đặt ống thải là có sự cho phép của nhà nước Việt Nam, tức Formosa vẫn chẳng làm gì sai trái.
 
Kiểu bào chữa này chỉ làm bật lên hàng chục câu hỏi khác: Vậy ai đã ký giấy cho phép Formosa đặt ống thải? Trước khi ký đã có qui định Formosa được phép thải những chất gì hay tha hồ thải gì cũng được? Trước khi ký đã có khảo cứu gì về các tác hại môi trường không hay cứ quà đủ lớn là ký? Hoặc nếu chỉ nhắm mắt ký theo "lệnh trên" thì cấp trên đó là ai? và còn rất nhiều câu hỏi khác.
 
Nhưng quan trọng hơn tại điểm này là phải làm gì một khi đã xảy ra thảm họa môi sinh ở tầm cỡ như đang thấy?
 
Đối với các chính phủ trên thế giới trước hoàn cảnh tương tự, chắc chắn họ đã phải:

- Trước hết, phải tuyệt đối chận đứng ngay tình trạng quan chức địa phương đang âm thầm "cho phép" con buôn chuyển cá chết đi bán ở tỉnh khác.

- Phải tập trung cá chết và chôn sâu tại vùng hoang vắng, xa các nguồn nước.

- Phải cắm nhiều bảng thông báo, đánh dấu các vùng độc hại (vùng chôn cá, vùng biển và bãi biển liên hệ, ...)  và thông báo trên toàn quốc để người dân tránh đến gần trong một khoảng thời gian nhất định.

- Phải mời gọi giới chuyên gia Việt Nam nhập cuộc để xác định tầm mức tác hại mọi mặt, ở hiện tại và trong tương lai.

- Phải đòi buộc Formosa tẩy độc môi sinh dưới biển và trên bờ; bồi thường các nạn nhân đã trúng độc và các ngư dân thuộc các tỉnh đang mất nguồn sống.

- Phải chận đứng vĩnh viễn việc xả chất độc tại khu công nghiệp Vũng Áng chứ không thể lại áp dụng thủ thuật "tạm đình hoãn cho yên dư luận rồi làm tiếp".
 
Và quan trọng nhất lúc này, hãy ngưng ngay loại phát biểu độc ác và vô lương tâm như của Phó Chủ Tịch Hà Tĩnh Đặng Ngọc Sơn, bảo dân "Cứ yên tâm ăn cá, tắm biển ở Vũng Áng". Hãy cũng ngưng ngay thái độ cố tình bịt tai, che mắt làm ngơ như Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng trong chuyến thăm khu công nghệ Vũng Áng ngày 22.4.2016. Ông hoàn toàn không dám đề cập đến nguyên nhân thảm họa đang xảy ra cách ông chỉ vài trăm mét.
 
Hiện đang có quá nhiều việc phải làm và làm gấp rút đối với thảm họa môi sinh tại Vũng Áng và đang lan nhanh sang các tỉnh khác. Giới lãnh đạo đảng và nhà nước không thể chỉ làm duy nhất một việc. Đó là chạy tội cho Formosa.


 

Hơn 50 năm, nhìn lại một đời người, 1963-2016 - Tác giả Phạm Thăng Long



Gần dịp 30 tháng 4 mỗi năm, chúng ta ở hải ngoại có thói quen làm một cuộc “hành hương tâm linh,” nhìn lại kỷ niệm tha hương và viết cho bạn bè người thân. Bài này tập hợp nhiều đoạn văn rời, đi kèm các hình ảnh ghi lại trong tâm trí từ mùa hè 1963 lúc người viết còn là học sinh lớp Đệ Tam trường Chu Văn An (lớp 10 bây giờ), vừa đủ “lớn” để biết ghi nhận sự việc quanh mình và sửa soạn vào đời trong bầu không khí dầu sôi lửa bỏng lúc đó của miền Nam do biến cố Phật Giáo. Và kéo dài đến bây giờ vào tháng 4, 2016, hay 41 năm sau cơn dâu bể 1975 đã làm Sài Gòn đổi tên đổi chủ, làm cả cuộc đời thanh niên của mình thay đổi theo “vận nước” để đi vào tuổi “lão niên” lúc nào không biết!

Nhưng hơn thế, bài này mong ghi lại những mảnh đời, trong một thời gian dài của thế hệ lớn lên ở miền Nam rồi ra nước ngoài, do hoàn cảnh ở hai không gian hoàn toàn khác biệt. Bài viết cũng nhằm ghi lại vài nét chấm phá cho những bức ảnh lịch sử, ghi nhận nhiều sự kiện trong con mắt chủ quan.
Thế hệ đó nay thuộc vào giới tuổi hưu. Vì đã lớn lên trong chiến tranh ở miền Nam, thuở niên thiếu đã mang nặng hình ảnh và day dứt của cuộc chiến, không có được những bình yên trong ý nghĩ tuổi thơ và cái hồn nhiên mê đá bóng hay đua xe máy như lớp thiếu niên cùng thành phố lớn lên sau này ở quê nhà. Những ám ảnh về cuộc chiến trở thành một hành trang nặng nề lúc ra đi sống ở nước ngoài. Vì thế luôn ấp ủ chút kỷ niệm đẹp về tuổi thơ ở quê nhà, nâng niu từng hình ảnh với người thân trong gia đình và bạn bè lúc còn sống ở đó.

Ra đi và đã sống ở nhiều nước trên thế giới: Canada, Mỹ và vài nước khác do công việc đòi hỏi. Nhưng tâm tư vẫn luôn quay về chốn cũ, hoài niệm những tia nắng ấm quê hương trong cái giá buốt của tuyết lạnh Bắc Mỹ, nhớ lại những dòng sông nơi quê nhà mỗi lần đứng nhìn sông Potomac chảy qua Washington, D.C, ngay cả lúc sang đến tận Phi Châu làm việc, chịu cơn nóng thiêu đốt vì thiếu mưa, vẫn còn bâng khuâng nhớ đến những cơn mưa dài của Sài Gòn thuở nào.
Người viết đã giữ lại nhiều hình ảnh xứ người, nhưng lại chủ ý ghi dấu tâm tư so sánh với quê nhà, tựu chung cũng là để “tìm lại khoảng thời gian đã mất,” như Marcel Proust đã viết. Đôi khi thiếu khách quan vì đã ca tụng quê hương mình thái quá.

Rồi nhờ các cơ hội nghề nghiệp, được thỏa mộng viễn du qua các chuyến công tác, để từ đó luôn ghi vội hình ảnh những chuyến đi, những gì đã thấy đã nghe. Và trong cái sôi nổi được thấy cảnh mới người lạ, cùng óc cầu tiến của người trẻ, thấy cái gì của bên ngoài cũng hay cũng đáng học. Những băn khoăn, mong ước cho một đất nước Việt Nam tươi sáng phú cường, cùng những ước vọng và dự phóng tương lai cho quê hương hình thành từ đó.

Sài Gòn 1963-64


Trừ những lúc có cơn mưa nặng hột và dài thường xuyên đổ xuống xối xả, trời Sài Gòn oi bức lạ thường Hè năm đó, do không khí chính trị ngột ngạt của miền Nam với biến cố Phật Giáo và những năm tháng cuối cùng của Chính Phủ Ngô Đình Diệm. Các trường trung và đại học cùng tham gia vào không khí sôi nổi đó một cách bộc phát mà không suy nghĩ sâu xa. Nhưng sau một đời người nhìn lại và đọc nhiều sách lịch sử mới hiểu lúc đó mình chỉ là những con chốt nhỏ bị giật dây trong những hoạt động chính trị đầu đời.

Những phố phường còn vắng, các ngôi nhà cao tầng xây cất giản dị, tuy Sài Gòn đang mang danh “Hòn Ngọc Viễn Đông,” nơi các phố Nguyễn Huệ, Tự Do, Lê Lợi luôn tràn đầy khách du lịch hạng sang từ vài nước láng giềng, nhất là từ Singapore khao khát ngắm cảnh lạ đến Sài Gòn tìm mua các mặt hàng xa xỉ.

Từ nhiều năm, thành phố đã hưởng sự yên bình đáng kể, đời sống kinh tế khá sung túc ổn định. Đã qua những cái Tết 1956-63 an vui tràn đầy, với những cành mai vàng khoe sắc, với tiếng pháo nổ ran từ giữa đêm giao thừa và xác pháo đỏ ngập đường phố ba ngày Tết. Tuy đời sống vật chất hàng ngày còn tương đối đạm bạc.

Nhưng sự ổn định chấm dứt sau cuộc chính biến 1 tháng 11, 1963, Chính Phủ Ngô Đình Diệm được thay bằng nhiều chính phủ lâm thời từ 1964, có khi chỉ kéo dài vài tháng. Các xáo trộn kinh tế, xã hội, giáo dục nặng nề nhiều năm sau đó, đã là hệ quả tất nhiên của cuộc thay đổi chính trị này mà lịch sử mấy chục năm sau mới giải thích được.

Các năm 1965-1975


Một số thanh niên du học đã rời nước ra đi trong hoàn cảnh đó, nhìn lại đất nước quê hương từ xa như chứng nhân bất đắc dĩ.

Những chính phủ quân nhân hay dân sự trên đã làm rối đi chính trường miền Nam. Cuộc chiến đồng thời leo thang trầm trọng, rồi thành khốc liệt trong suốt 12 năm tiếp nối khi miền Bắc gia tăng áp lực. Rồi kéo theo sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và đồng minh. Cuộc chiến bước sang giai đoạn hủy diệt, thay đổi toàn bộ xã hội miền Nam. Những tang tóc đau thương hằn lên dấu vết cho từng gia đình. Từ bên kia trái đất, chúng tôi theo dõi qua truyền hình hàng đêm tin tức chiến sự quê nhà, rồi thao thức trằn trọc thâu đêm.
Biến cố Mậu Thân 1968 đã là biến cố gây đậm nét đau thương nhất trong vài năm đầu xa quê hương. Vài bạn từ Huế có hung tin ngay từ sớm, đem tang chung cho cộng đồng sinh viên du học, mối âu lo kéo dài nhiều ngày. Cảnh các nhóm túm tụm nhau trong vài phòng “dormitory,” bỏ học và uống bia say suốt đêm trong nỗi nhớ nhà và âu lo cho an ninh gia đình, đã là kỷ niệm khó quên gần suốt đời du học.
Cuộc chiến đi vào khốc liệt hơn từ sau 1971, với sự đổ vỡ mất mát toàn diện cho miền Nam từ biến cố tháng 4, 1975 như một cuộc đổi đời. Đám sinh viên tốt nghiệp trở thành lạc lõng, mất định hướng hoàn toàn trên xứ người, rải rác ở nhiều nước trên thế giới. Nhiều người lại nặng gánh, phải lo cho cả gia đình mới sang định cư. Hình ảnh Việt Nam xa mờ dần, rất đông tự nhủ cố gắng “xin nhận nơi này làm quê hương” trên các miền đất hứa, coi như từ nay chia tay vĩnh viễn miền đất bên kia địa cầu.

Nhưng rồi cũng đến một ngày đòi hỏi nhiều thay đổi ở Việt Nam. Vì nhu cầu kinh tế cấp bách, miền đất đó phải thay đổi phần nào các chính sách. “Đổi Mới” là tên gọi cho hai thập niên mở cửa nền kinh tế, áp dụng các chính sách thị trường dù còn hạn hẹp. Kết quả là đã có những tiến bộ vật chất nhất định, như các chỉ số tăng trưởng, bộ mặt đời sống được cải thiện ở những thành thị, dù nông thôn còn chìm đắm trong cái nghèo khó cố hữu.

Một số người chợt quyết định muốn trở về nhìn lại quê hương, dù trong tâm tư “Từ Thức về làng.”







Những năm sau 1975: Còn đó nỗi buồn

Tôi trở về Sài Gòn nhiều lần trong đầu thập niên 90 do công việc đang làm với một tổ chức tài chính quốc tế, mới chợt tìm thấy một lúc muốn ngồi xuống bình tâm viết lại vài xúc cảm về thành phố đã ôm ấp biết bao kỷ niệm đẹp của tuổi mới lớn.

Vốn sinh ra ở Hà Nội, thời trung học tôi nâng niu những quyển sách Tự Lực Văn Đoàn của các nhà văn kể chuyện về đất Thăng Long. Những năm gần đây nhất, đọc bao tùy bút và hồi ký ở hải ngoại phần lớn nói về Hà Nội, tôi cũng tưởng mình sẽ chỉ muốn viết về thành phố huyền thoại ấy. Nhưng sau nhiều chuyến công tác ngắn ghé thăm Việt Nam, tuy Hà Nội có quyến rũ, thơ mộng nhưng tôi chợt nhận ra sự gần gũi chỉ tìm thấy ở Sài Gòn.

Đó mới là “thành phố của tôi,” trở về mà không phải cần bản đồ để tìm đường, không phải nhờ người hướng dẫn du lịch, chỉ chỗ xem phong cảnh hay vài chỗ ăn uống nổi tiếng.

Những con đường quen thuộc, chỉ đổi tên mới, vẫn còn đó. Những hàng me ướt lá sau cơn mưa chiều vẫn còn nguyên vẹn nét trữ tình, chờ đợi... Mái tóc kẻ bộ hành bây giờ đã ngả dần sang hai mầu, khác xa những ngày tháng cũ thuở trung học tóc còn mướt đen ướt đẫm vì chạy vội dưới cơn mưa rào.

Lần đầu tiên trở về trong niềm xôn xao khó tả trong lòng, từ lúc phi cơ đáp xuống Tân Sơn Nhất, thấy những ngôi nhà cũ, các hầm trú bê tông cho máy bay từ thời chiến tranh, đến lúc ở giữa dòng giao thông đông đúc chạy theo con đường Công Lý. Rồi rẽ trái Dinh Độc Lập ra đường Thống Nhất, qua khu nhà thờ Đức Bà về khách sạn Caravelle ở trung tâm thành phố gồm những địa danh cũ: Tòa nhà Quốc Hội, rạp ciné Rex, khách sạn Continental, hiệu kem Givral góc đường Tự Do và Lê Lợi, đường Nguyễn Huệ tráng lệ chạy dài từ Tòa Đô Chính ra đến bến Bạch Đằng gồm những kiosques bán hoa, băng nhạc, mứt rượu Đà Lạt... Bây giờ những quán này đã được gỡ bỏ, làm cho con đường trở thành sạch rộng hơn trước nhiều, nhưng lại mất vẻ thân quen cho khách xưa.
Cái nóng oi bức, bụi khói của những chiếc xe Honda vẫn là bức tranh khó quên của đường phố Sài Gòn dạo trước. Sau hơn hai mươi năm với dân số tăng gần gấp ba, số nhà cửa, xe cộ làm thành phố chật hẹp di nhiều và làm lộ rõ áp lực nạn nhân mãn của các đô thị Á Châu bây giờ. Khu vực công trường ở trước nhà bưu điện chính bao quanh nhà thờ Đức Bà vẫn còn vẻ đẹp uy nghi, giữ lại nét diễm lệ của thành phố.
Ngày xưa mỗi chủ nhật tôi vẫn thường phóng mobylette đến khu vực này để tìm mua những ổ bánh mì Bưu Điện ngon, bọc sạch sẽ trong giấy màu trắng ngà của quán Hương Lan, mà bây giờ không còn tìm thấy nữa.

Những ngày trở lại Sài Gòn tuy ngắn ngủi, nhưng tôi đã bỏ khá nhiều thì giờ tản bộ trên những hè phố quanh khu trung tâm Tự Do-Nguyễn Huệ-Lê Lợi. Đặc biệt mỗi sáng sớm, tôi có thói quen đi dạo từ khu khách sạn “mini” ở đường Tự Do xuống nhà thờ Đức Bà, qua công trường “con Rùa” nơi có viện Đại Học. Rồi trở lại đường Duy Tân, tôi qua trường Luật tìm ngôi nhà cũ của mình ở góc Hiền Vương. Con đường cây dài bóng mát ngày xưa bây giờ đã khác đi nhiều, đã mất bớt cây cối và chật hẹp bẩn hơn vì những quán hàng la liệt hai bên vỉa hè. Ngày xưa con đường này chỉ toàn những villa nhà ở sang trọng, bây giờ mở những cửa hiệu nhỏ, hay được đập đi thành những khu văn phòng cho người ngoại quốc thuê.
 

Góc Lê Lợi và Tự Do.


Dừng lại trước địa chỉ cũ của ngôi nhà dấu yêu, nơi tôi đã sống những ngày thơ ấu, tôi bàng hoàng khi thấy căn nhà đó biến mất và được thay thế bằng cao ốc trụ sở của một ngân hàng lớn bây giờ. Cảm xúc vì tiếc nuối, ngỡ ngàng dâng lên mãnh liệt, nhắc nhở thực tại Từ Thức về chốn cũ. Tôi bắt đầu những ngày ở Sài Gòn chỉ đi tìm về những nơi hay lui tới dạo trước, cố quay lại những khúc phim cũ trong ký ức để so sánh với những cái mình thấy bây giờ.

Một nơi khác mà tôi cũng cố tìm tới là khu nhà thờ Ngã Sáu ở Minh Mạng thăm lại ngôi trường Chu Văn An cũ. Tôi bước vào lớp học cũ, nhìn lại từng dãy xe đạp, bâng khuâng hoài niệm những khuôn mặt thầy bạn cũ của một thời làm báo học trò, của những mối tình si nhẹ nhàng lúc bỏ sang trường Trưng Vương thả hồn theo các tà áo trắng trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Tìm mãi mà tôi không nhận ra đâu là khu nhà nhỏ của bác gác gian nổi tiếng của trường, nơi vẫn bán xôi lạp xưởng và chè đậu đen đầy kỷ niệm cho hàng bao thế hệ Chu Văn An. Tôi chỉ còn nhớ căn buồng dùng làm khu sinh hoạt học đường trong dãy nhà ngoài cùng nơi vẫn đến tập múa hát hay hội họp làm báo. Ba năm trung học với những kỷ niệm hoạt động học đường, lo lắng thi cử, những tình yêu học trò chợt đến chợt đi. Vài mộng mị lý tưởng cho tuổi mới lớn khi tình yêu quê hương vừa hình thành một cách đứng đắn, đan kết bởi những dằn vặt suy tư của một thế hệ lớn lên trong bối cảnh chiến tranh thời đó.

Cắt ngang là đường Bà Huyện Thanh Quan êm đềm với chùa Xá Lợi giờ đây trông nhỏ bé quạnh hiu. Khác với chùa Xá lợi, chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Công Lý trông bề thế, nhộn nhịp hơn, lúc nào cũng khói hương nghi ngút với số người đi lễ đông nghẹt gần như thường trực. Chùa Vĩnh Nghiêm và Vương Cung Thánh Đường gần như là hai “thắng cảnh” đặc biệt cho những người ở xa về.

Nhưng tôi xúc cảm nhiều hơn lúc đi theo đường Trương Minh Giảng, vượt qua cầu và ngôi chợ nhỏ. Tìm đến ngôi chùa Pháp Hoa rất nhỏ, đặt nén hương cho những người thân nằm đó trong bình yên vĩnh cửu. Người đàn ông 65 chợt thấy mắt nhạt nhòa trước hai khung ảnh gắn trên bình tro của bà nội tôi và ba tôi. Bao người xưa đã nằm xuống, một số khác đã đi ngoại quốc, bạn bè thân đã bỏ mình hay tản mát nơi đâu sau mấy chục năm?

Tôi quay về đây chợt thấy lạc lõng dù đó là thành phố mộng tưởng của các năm dài sống ở bên Mỹ. Những ngày ở khách sạn Sài Gòn, ba buổi đi tìm hiệu ăn. Thiếu vắng một bữa cơm nóng đơn giản trong ngôi nhà quen thuộc, đã làm cho tôi nhận rõ cảm tưởng chua chát mình chỉ là khách du lịch ngay trên quê hương, dù vài người thân họ hàng vẫn niềm nở tiếp đãi. Không khí ngày Tết hay Giáng Sinh có nhộn nhịp chào đón và gợi cảnh cũ, tôi vẫn thấy mình đếm rõ từng bước cô đơn trên các hè phố cũ quen thuộc.

Trong ánh mắt nhìn của đa số họ hàng, bạn bè vẫn còn chút tò mò tìm hiểu kẻ lạ trước mặt là tôi. Và dù muốn tự dối mình, tôi cũng không thể xuất hiện như những người bình thường trong cuộc sống hàng ngày ở đây. Tôi vẫn là “người lạ,” càng cố làm ra vẻ tự nhiên hòa đồng lại càng thấy ngượng nghịu, có chút tính chất “kịch” trong đó. Ở vài nơi tiếp xúc làm việc, tôi càng nhận ra điều đó. Tôi đã được đào tạo trong môi trường khác, với cách suy nghĩ hoàn toàn xa lạ với những anh em đồng nghiệp chung quanh.

Nếu tôi đến họ với tư cách doanh nhân hay đại diện một cơ quan nước ngoài, công việc có phần thuận lợi hơn trong cách cư xử. Nhưng nếu tôi muốn trở về “nhập cuộc” trong một cơ sở Việt Nam như một nhân viên bản xứ, sự hội nhập sẽ khó khăn và gần như không tưởng. Hiệu năng làm việc sẽ rất khiêm tốn vì những hàng rào ngăn cách trong công việc và giao tế. Tôi ngỡ ngàng khi nhận ra điểm đó sau vài chuyến về nhà. Nếu tôi còn bị xa lạ như thế sau khi đã trưởng thành ở Việt Nam và không bị khó khăn về ngôn ngữ đối thoại, làm sao các thế hệ con em có cơ hội trở về khi chúng chỉ bập bẹ tiếng Việt, đọc chữ không thông, đừng nói gì đến quay về sống và làm việc. Liệu quê hương sẽ chỉ là một địa danh du lịch hấp dẫn trong tâm tưởng nhóm con em ở hải ngoại này không?

Những ý nghĩ trên càng đi sâu vào trong tâm tư như một nỗi buồn gậm nhấm trong các chuyến về kế tiếp.



Quán Brodard 1955-56.


Mỗi lần trở về Mỹ, tôi ít có dịp kể lại đầy đủ các chuyện trên cho bạn bè, nhất là nếu chưa đủ thân thiết, vì đa số những lập luận hay câu chuyện đều hướng về công việc làm ăn hay những dự định tậu nhà, mua xe mới cho đời sống “bên này.” “ Bên kia” chỉ nên được coi như là thiên đường đã mất hay trong trí tưởng. Lý luận của bạn bè hay họ hàng chắc nịch như vậy nên tôi cả nể thường im lặng, chỉ kể qua loa về nếp sống ở Sài Gòn sau những chuyến công tác hay thăm viếng ngắn. Tôi chỉ quyết định viết những điều dài dòng này về Sài Gòn sau khi đọc rất nhiều sách báo về Hà Nội, và cảm thấy ẩn nhẫn bất công cho Sài Gòn, nơi đã cho tôi bao kỷ niệm đẹp thơ ấu và còn cho tôi sự quen thuộc gần gũi mỗi lần trở về, dù phần lớn chỉ để hoài niệm những ngày tháng đã qua trong thành phố thân yêu ấy.

Và có lúc tôi đã muốn kêu to: Sài Gòn, ôi tình nhân đã khuất!

Và hôm nay 2016

Những năm thay đổi đã cho Sài Gòn một bộ mặt mới hào nhoáng hơn nhiều, tiêu biểu nhất là trong những bức hình của khu trung tâm Eden ở quận Nhất ngày xưa. Tòa nhà có quán cà phê Givral nổi tiếng đã được thay thế bằng một building mới sang trọng như ở Paris, London... Ngồi lại trong chiếc ghế của quán mới, khó ai nghĩ mình không đang ở một thành phố lớn hiện đại của trời Âu.


Trung tâm Eden mới.


Nhưng, người biết rõ xã hội miền Nam ngày trước có mặt hôm nay, không thể không nói đến cái giá đắt phải trả. Người thanh niên trẻ của xã hội mới không thể dấu mọi chuyện với người bạn thế hệ cũ mới gặp.

Đất nước hôm nay chứng kiến sự băng hoại của cả một xã hội cũ trong cái hào nhoáng mới hình thành. Con người đã thay đổi quá nhiều, đức tính thành thật trong giao tiếp hàng ngày gần như đã mất. Các giá trị tinh thần được đánh giá bằng các thước đo vật chất.

Lý tưởng thanh niên đang bị lung lay không chỗ dựa. Người ta có thể vội vàng nhận xét nhóm người tuổi trẻ hôm nay chỉ sống vội, ồn ào theo đuổi vật chất, và gần như vô cảm.

Nhưng thật sự họ là những người cô đơn nhất. Một đất nước có thống kê chỉ rõ tuổi trung bình là 24, và 65% dân số dưới tuổi 35, nhưng lại ít chú ý chăm sóc giới trẻ nhiều tiềm năng đó qua giáo dục và phát triển tinh thần.

Hiện trạng của đất nước không tạo được cảm hứng hay nuôi dưỡng các ý tưởng phục vụ cho thế hệ trẻ hôm nay. Tương lai với họ như thiếu chắc chắn, vì các giá trị dân chủ, công bằng và nhân ái cần thiết cho một xã hội hiện đại đều thiếu vắng. Ngay cả sự tiến bộ kinh tế, điểm sáng được ca tụng trên sách báo của bốn mươi năm qua, cũng đang trở thành mong manh tạm bợ.

Tăng trưởng đã chậm lại rõ rệt từ vài năm nay do sự bế tắc chính sách, điển hình nhất là do sự chi phối của các bè nhóm vì lợi ích riêng tư. Đồng thời phẩm chất cuộc sống đi xuống, nhiễm độc môi trường và thức ăn trở thành mối đe dọa trực tiếp hàng ngày cho đời sống của mọi giai tầng xã hội. Trên tất cả, nền kinh tế bị đe dọa sụp đổ từ 2-3 năm nay, khi hệ thống ngân hàng có thể vỡ bất cứ lúc nào với mức nợ xấu quá mức chịu đựng, nếu không có các chính sách thích hợp cấp thời. Nợ xấu tư nhân khổng lồ làm tê liệt hệ thống tín dụng ngân hàng và gánh nặng nợ công lớn không kém có lẽ đang tạo thành một “thế vỡ trận” tài chính trong tương lai gần. Gánh nặng hình như đang được đẩy cho các thế hệ tương lai phải chịu, với sự dồn món nợ công hiện tại thành những món nợ lớn tương lai qua giải pháp phát hành trái phiếu công dài hạn trong và ngoài nước.

Nhiều chuyên gia đang bàn đến các giải pháp kinh tế xã hội ngắn hạn. Nhưng trong con mắt chuyên viên, khó có thể có một “quick fix” (sửa chữa nhanh) hay “a sugar high” (một ảo tưởng), mà phải là những thay đổi thể chế và chính sách kinh tế cơ bản dài hạn, cộng thêm việc tái lập các giá trị nhân văn căn bản qua giáo dục và hướng dẫn cho tuổi trẻ.

Thế hệ trẻ biết rõ nhưng vẫn thờ ơ với viễn ảnh tương lai đó. Thiếu niềm tin, họ đang trả lời bằng sự chán chường những giá trị sống hiện tại, dồn đam mê đời sống vào các mác xe máy đắt tiền và những chiếc điện thoại thông minh thời trang, tỏ lộ hừng khí tuổi trẻ đơn giản bằng các cuộc đua xe tốc độ hàng đêm trên những đường vắng, hay khá hơn, chỉ biết diễn tả lòng yêu nước đơn giản bằng cổ vũ chiến thắng đá bóng cuồng nhiệt trong các trận “thư hùng” với các đội quốc gia vùng.

Nhưng Sài Gòn 2016 chợt thành ngột ngạt thêm vì những biến cố thời cuộc, và sự sôi sục của cả thế hệ thanh niên muốn nói lên tiếng nói yêu nước của mình. Cùng lúc các ức chế xã hội cộng thêm những khó khăn về đời sống hàng ngày hình như đã góp phần gây thêm những tội phạm xã hội ngày càng cao hơn, cho các dấu hiệu của một xã hội đang trên đà xuống dốc trầm trọng.

Nhưng hơn 50 năm qua nhìn lại vào dịp 30 tháng 4 năm nay, quê hương vẫn còn đó, là dòng sông Hồng, là nhánh Cửu Long, là Hương giang, và ở bất cứ đâu nhìn dòng nước lặng lờ trôi, lòng nhận biết mình vẫn thuộc về nó: một quê hương không bao giờ mất.

Biết ơn và không quên những người đàn anh thế hệ trước đã hy sinh, tôi thấy mình vẫn còn tự nói lên được tiếng nói hãnh diện của cả một thế hệ tuổi trẻ miền Nam, hay của bên tạm bị ví von thời thượng là “Bên Thua Cuộc.” Theo chiều dài lịch sử của cả một đất nước và một dân tộc, hôm nay bên thắng bên thua có lẽ chưa ngã ngũ là ai vì chưa rõ được hồi chung cuộc, nhưng ít nhất thế hệ chúng tôi có thể nhớ lại nhiều điểm son.

Tuổi thanh thiếu niên dưới hai nền Cộng Hòa miền Nam trước đây tràn đầy lý tưởng. Không khí học hành sôi nổi, các trường thi đua trong các kỳ thi tổ chức qui củ. Giấc mơ du học hình thành. Ý tưởng học xong trở về nước phục vụ luôn ngút ngàn. Nền tảng tổ chức một xã hội công dân bắt đầu hình thành, cho thanh niên mới lớn giấc mơ giản dị là sẽ phục vụ đất nước bằng con đường học vấn, giống như bất cứ người trẻ nào trong các nước láng giềng. Quốc gia đang còn ở trong giai đoạn “hình thành” (“nation building”) với những căn bản phôi thai về dân chủ nhưng đã biết tôn trọng các nguyên tắc nhân quyền quốc tế công nhận. Xã hội nói chung còn mang vài nét phong kiến cũ rơi rớt lại, nhất là dưới thời Tổng Thống Diệm, nhưng đã được xây dựng chắc chắn trên căn bản “nhân nghĩa lễ trí tín” của dân tộc Việt từ ngàn năm. Tiếc là cơ cấu tốt đẹp đó không được kéo dài!
Vài đàn anh lớn đi trước, đã tốt nghiệp hoặc đã đi dậy trên bục giảng đường đại học ngoại quốc, nhưng đa số mới bắt đầu lên đường năm thứ nhất, tạo phong trào cho các thế hệ đàn em vài năm sau đó. Nền giáo dục miền Nam vẫn bị chỉ trích thường xuyên dạo đó do sự cầu tiến, nhưng công bằng mà nói, những sinh viên phát xuất từ những ngôi trường Nam Việt Nam, đã xuất sắc ở những trường Âu Mỹ vào các kỳ thi tốt nghiệp sau này, là chứng cứ cho thành tích đáng kể của nền giáo dục VNCH nhìn lại.

Mong ước xây dựng một Nam Việt Nam trù phú hùng cường từ những năm 1960, tương tự giấc mơ của Nam Hàn trong ba thập niên sau, nung nấu tâm can những người trẻ, dù việc thực hiện giấc mơ đó được hay không sau này mới hiểu là do “thiên định.”

Từ 1963, hai Nền Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam đã bị đánh đổ, gây ra hai Cơ Hội Bỏ Lỡ (lost opportunities) và đẩy miền Nam vào vị trí “bên thua cuộc” tháng 4 năm 1975.
Lớn lên và mãi hơn 50 năm sau, mới hiểu các phù thủy chính trị và “bàn tay lông lá” đã triệt hạ chế độ Tổng Thống Diệm để đánh đổ Đệ Nhất Cộng Hòa của miền Nam (2 tháng 11, 1963) như thế nào, gây ra Cơ Hội Bỏ Lỡ lần thứ nhất để xây dựng một Việt Nam độc lập phú cường như của Nam Hàn sau này, đủ sức chống lại sức mạnh từ phương Bắc và biết đâu thay đổi cả vận mệnh và lịch sử đất nước?! Ông Henry I (Henry Cabot Lodge, đại sứ Mỹ năm 1963) đã được bạn “đồng minh” Mỹ giao nhiệm vụ nhạc trưởng lật Tổng Thống Diệm và ông em. Mười hai năm sau, 30 tháng 4, 1975, mặc dù sau cuộc chiến dài tàn phá quê hương với nhiều lý do phức tạp hơn, đồng minh lại quay lưng phản bội làm đổ nốt nền Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam. Cơ Hội Bỏ Lỡ lần thứ hai này do Ông Henry II (Henry Kissinger) đạo diễn với tư cách ngoại trưởng chính phủ Mỹ từ bên kia nửa địa cầu. (*)

Ông Henry I đã nằm yên bên này xứ Mỹ, như hai ngôi mộ “Huynh” và “Đệ” của hai người anh em được chôn bên cạnh nhau trong một nghĩa địa Lái Thiêu hoang vắng ở bên kia sau ngày 2 tháng 11, 1963, mà hàng năm chỉ có một dúm người nhỏ đến thắp hương thăm viếng tưởng niệm!

Với ông Henry II, dù vẫn tại thế viết thêm những cuốn sách hay bài diễn thuyết hùng hồn của một “đại trí thức” để giải thích chối lỗi, tiếp tục gian dối cả nước Mỹ chứ không riêng gì cộng đồng dân tộc Việt, trách nhiệm ông còn rành rành qua kho tài liệu lịch sử và các chứng nhân Việt-Mỹ. Gần 2 triệu người chúng tôi đã tức tưởi nằm xuống, hay chìm sâu trong lòng biển trên đường tìm tự do, hay gửi thân vào tro bụi theo ngọn lửa thiêu cuối đời tha hương nhọc nhằn bất đắc dĩ, mong theo dòng nước các đại dương lớn trôi dạt nửa trái đất về bến bờ xa cũ... Tâm tư đó còn rất sâu đậm trong lòng mỗi người Việt tha hương mỗi dịp ngày 30 tháng 4 trở lại.

Trong nén hương lòng đó, người viết mong tìm đến một dòng sông nhỏ, hay một chiều Sài Gòn đi dạo mưa dưới những hàng me lá đổ, vẫn còn cố tìm về “quê hương trong tâm tưởng,” dù thời gian có trôi qua và các khuôn mặt cũ đã khuất bóng như người anh vừa nằm xuống. Và chợt tìm thấy lại niềm hạnh phúc và hy vọng mãnh liệt ở đó, vì các thay đổi lớn khác sẽ phải đến: Những con người, định chế hiện tại sẽ theo luật thời gian.

Một đất nước sẽ mãi trường tồn bên những biển dâu, những người trẻ Việt Nam hôm nay sẽ tìm lại được niềm tin của các thế hệ đàn anh thuở nào. Họ sẽ tiếp nối ngọn lửa nhỏ tuy thực tế chỉ còn le lói trước mặt, để có một ngày biến thành bó đuốc chói sáng cho vận hội mới của cả dân tộc Việt, không thể là kẻ “thua cuộc” mãi mãi được, nhất là trước hiểm họa xâm lăng gần kề của Hán tộc!
 

(*) Tôi được đọc cách gọi 2 đao phủ Henry I và II này trong một quyển sách giá trị của Giáo Sư Nguyễn Tiến Hưng về lịch sử Việt Nam 1955-75, hy vọng sẽ được tác giả cho ra mắt dịp gần đây.


Đất nước mình ngộ quá phải không anh - Thơ Trần thị Lan(Hà Tĩnh, VN)




Đất nước mình ngộ quá phải không anh

Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...


Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...


Đất nước mình buồn quá phải không anh
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...


Đất nước mình thương quá phải không anh
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...


Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...






Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tháng tư đen 2016, VNCS giữa HK và Trung Cộng







THÁNG TƯ ĐEN (1975-2016): Anh hùng tử khí hùng nào tử!




 
 
 
 
 




Danh sách các quân nhân Quân Lực VNCH đã tự sát trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa.

 Cấp bậc - Họ tên - Chức vụ - Đơn vị - Ngày tự sát, theo thứ tự

 1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975
 2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975
 3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975
 4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975
 5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975
 6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat. 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
 7- Đại Tá Lê Câu, trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tự sát ngày 10/3/1975
 8- Thiếu Tá Hải Quân Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975
 9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
 10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
 11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh Quân Đội
 12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975
 13- Trung Tá Vũ Đình Duy, Trưởng Đoàn 66 Đơn Vị 101 Bộ TTM. Tự sát ngày 30/4/1975
 14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, Trưởng Đoàn 67 Đơn Vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/1975
 15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
 16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
 17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. Ngày 30/4/1975 tự sát cùng vợ
18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975
 19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, Đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/75
 20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975
 21- Đại Úy Tạ Hữu Di, Tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975
 22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975
 23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
 24- Trung Sĩ Trần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975
 25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, Quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975
 26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, Tiểu đoàn trưởng ĐPQ, Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Tự sát ngày 29/4/1975
 27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt tự sát ngày 30/4/1975
 28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75
 29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch… bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, Trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
 30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM
 31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, Cảnh sát đặc biệt, tự sát ngày 30/4/1975 tại Thanh Đa, Sài Gòn
 32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
 33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
 34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa
 35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975
 36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
 37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
 38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu
 
 
 
 



Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016

Cuộc chiến Việt Nam, 41 năm nhìn lại







DÂN MUỐN CÁ SỐNG = DMCS







Trần Chí Phúc hát Cá Chết Miền Trung







Muôn nghìn đời dạt dào chính khí Việt - Tác giả Nguyễn Mai(Điện Cơ 4) và hiền thê





Tàu Cộng còn lâu mới đuổi kịp Hoa Kỳ - Tác giả Hà Tường Cát




Vai trò siêu cường quốc duy nhất nắm quyền lãnh đạo thế giới của nước Mỹ kể từ khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, phải chăng nay đang đi tới chỗ chấm dứt?

Đó là thắc mắc đặt ra do Trung Quốc, dân số khổng lồ và nền kinh tế đang tiến lên đứng đầu thế giới, rõ ràng có tham vọng tở thành siêu cường ngang bằng hay thế chỗ Hoa Kỳ. Dù cho tăng trưởng của nước này hiện có chậm lại nhưng cũng sẽ vẫn còn nhanh hơn Hoa Kỳ trong nhiều năm. Dùng sức mạnh tiền bạc, Trung Quốc đã không ngừng lôi kéo bè bạn, răn đe 'kẻ thù', hiện đại hóa quân sự và hành động bành trướng bá quyền khu vực. Do đó, trong quan điểm của nhiều người, vấn đề không phải Trung Quốc có trở thành siêu cường hay không mà chỉ là bao giờ?

Tạp chí Foreign Affair số tháng 5/6 phân tích về điều này dựa theo cuốn sách “ Vai trò toàn cầu của Hoa Kỳ trong thế kỷ 21”, do nhà xuất bản Oxford University sắp phát hành. Tác giả là Stephen G, Brooks và William C. Wohlforth, hai giáo sư Darthmouth College, trường đại học tư thục danh tiếng ở New Hampshire thành lập từ năm 1769, hiện nay có 4,300 sinh viên. Theo Brooks và Wohlforth có nhiều lý lẽ để nhận định rằng Hoa Kỳ sẽ còn tiếp tục là siêu cường duy nhất trên thế giới trong nhiều thập niên nữa và Trung Quốc chưa dễ gì giành được vị trí ấy.

Ngày nay, kinh tế phát triển không trực tiếp chuyển hóa thành sức mạnh quân sự như trong quá khứ, có nghĩa là một nước mới nổi lên sẽ khó khăn hơn để đánh đổ những cường quốc đã tồn tại. Dầu cho vị thế kinh tế của nước Mỹ đã bị xói mòn không còn ngự trị ở đỉnh cao, ưu thế quân sự Hoa Kỳ chưa hề suy kém. Thêm nữa, thế liên minh trải rộng toàn cầu đã hình thành qua nhiều năm là cốt lõi của trật tự quốc tế đang tồn tại và chưa thể chuyển qua cho một thế lực khác. Tuy vậy, cùng với vai trò siêu cường là vấn đề trách nhiệm, và Hoa Kỳ chưa hẳn đã luôn luôn có đủ kinh nghiệm và trình độ thuần thục về ngoại giao để đảm nhận trọn vẹn nhiệm vụ lãnh đạo thế giới. Còn Trung Quốc thì chưa bao giờ có cơ hội trải nghiệm những kiến thức ấy.

Trung Quốc cũng dường như bắt đầu mắc phải một hội chứng vốn là sự cám dỗ luôn luôn thể hiện nơi các cường quốc, đó là sẵn sàng can thiệp vào những nơi không hẳn là thuộc lợi ích cốt lõi của mình. Hoa Kỳ đã dính dáng vào Việt Nam, Liên Xô vào Afghanistan và Trung Quốc đang muốn khống chế Biển Đông. Bằng một lý luận nào đó, tất cả những hành động ấy đều có lý nhưng không hẳn là chân lý tuyệt đối, và thời gian đem đến câu trả lời . Chính quyền Obama có thể thận trọng với những cám dỗ kiểu ấy bởi vì lúc này nước Mỹ chưa có đối thủ ngang sức. Hậu quả tất yếu của chính sách này là giúp cho một đại cường quốc tránh khỏi những vướng víu ngoài dự tính có thể rất tổn hại. Trung Quốc có thoát khỏi những lỗi lầm như thế mới có thể đạt mục tiêu siêu cường của mình.

Trung Quốc là nước duy nhất có đủ tài nguyên nhân lực và tài lực để chiếm một địa vị toàn cầu ngang bằng với Hoa Kỳ. Tuy nhiên họ phải đương đầu với những thách đố khó khăn hơn những cường quốc xưa kia, ở chỗ trình độ kỹ thuật hãy còn thua kém xa, Xưa kia các cường quốc mới phát triển không trong tình thế ấy. Mặc dầu mọi người đều biết hàng xuất khẩu từ Trung Quốc tràn ngập trên thế giới kể cả các sản phẩm kỹ thuật cao, nhưng trong thời đại toàn cầu hóa, sự kiện ấy chưa phải đã có nhiều giá trị. Phân nửa hàng xuất khẩu của Trung Quốc thuộc vào loại mà các kinh tế gia gọi là “mậu dịch gia công”, với đồ phụ tùng và linh kiện được đưa vào Trung Quốc để lắp ráp, gia công ra thành phẩm.

Theo Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) Hoa Kỳ vượt xa mọi quốc gia về sáng kiến kỹ thuật, năm 2013 thu về tiền bản quyền $128 tỷ, gấp bốn lần nước đứng hàng thứ nhì là Nhật. Ngược lại Trung Quốc chỉ thu về tiền bản quyền kỹ thuật được khoảng $1 tỷ năm 2013.

Trình độ kỹ thuật còn kém bây giờ có nghĩa là Trung Quốc không dễ dàng theo kịp Hoa Kỳ về mặt quân sự để trở thành một cường quốc chiến lược đồng cấp. Nửa thế kỷ trước, mất khoảng 5 năm để phát triển một kiểu máy bay mới, tới cuối thế kỷ 20 thòi gian thiết kế và chế tạo mất khoảng từ 15 đến 20 năm, Những loại vũ khí hiện đại khác cũng đòi hỏi một thời gian càng ngày càng dài mới có thể hoàn chỉnh. Nếu Trung Quốc không đi theo một tiến trình như vậy thì cụ thể là khả năng quân sự của họ chỉ có giới hạn, bởi vì những kiểu vũ khí chế tạo ra dù mới nhưng đã lỗi thời. Đó là chưa kể tới các vấn đề khác như trang bị, sử dụng, huấn luyện và điều hành quân đội trong chiến tranh.

Sức mạnh quân sự của Trung Quốc thật ra hãy còn trong trình độ ấu trĩ. Chẳng hạn tàu ngầm nguyên tử đang chế tạo chỉ tương đương với các tàu ngầm Mỹ thập niên 1950-1960. Từ đó đến nay, qua 6 thập niên, chính phủ Mỹ đã đầu tư hàng trăm tỷ dollars và thế hệ tàu ngầm Virginia hiện đại có độ êm gần tuyệt đối. Năm ngoái, Hoa Kỳ đã có dự án xuất cảng kỹ năng động cơ tàu ngầm nguyên tử chạy êm cho Trung Quốc và có thể hiểu rằng trình độ của Hoa Kỳ hiện nay đã phải tiến cao hơn nhiều so với những gì không còn được giữ là bí mật quân sự.

Tất cả các chuyên gia quân sự đều đồng ý rằng sức mạnh của quân đội Trung Quốc mới chỉ có thể là sự đe dọa cho những nước nhỏ quanh khu vực, chứ chưa đủ giá trị đương đầu với Hoa Kỳ và các cường quốc quân sự như Nga, Anh hay kể cả Nhật Bản. Nhiều yếu tố khác, cho thấy đoạn đương tiến từ cường quốc đến siêu cường của Trung Quốc, trước hết trên bình diện quân sự, nếu có thể được, sẽ không phải là chỉ trong thời gian ngắn mà còn dài nhiều chục năm nữa.

Theo đánh giá của một số phân tích gia, Trung Quốc sẽ còn tiếp tục ở vị trí giữa cường quốc và siêu cường quốc trong nhiều năm, nói cách khác là quốc gia “có tiềm năng phát triển thành siêu cường quốc” hay cùng lắm là “siêu cường quốc hạng nhì”. Là đại cường quốc kinh tê chưa đủ để đạt mục tiêu mà còn cần khả năng kỹ thuật tương ứng.

Mặt khác, không phải con đường tiến luôn luôn là đi tới đỉnh cao, còn rất nhiều tồn tại và bất ngờ ngăn trở. Với Trung Qốc đó là guồng máy cai trị độc đoán của đảng Cộng Sản, tệ nạn tham nhũng, tình trạng môi trường và những phản ứng của tầng lớp trung lưu ngày một phát triển.

Để kết luận, có thể nói rằng mặc dầu sự thăng tiến của Trung Quốc, trái với nhiều lo lắng hoài nghi, vị trí siêu cường quốc của Hoa Kỳ vẫn còn vững bền hơn bao giờ hết. Có thể so với hai thập niên trước vị trí này có yều hơn chút ít, nhưng sự biết dừng bước để tồn tại là khôn ngoan hơn sự mạo hiểm đi vào chỗ bất trắc.

Theo hai tác giả, dù nhiều lời lẽ qua lại vốn là thường tình trong cuộc tranh cử, nước Mỹ không ở tình hình nguy hiểm toàn cầu và bị đe dọa bởi bất cứ quốc gia nào kể cả Trung Quốc. Nhưng tình hình tương lai ra sao sẽ tùy thuộc nhiều vào đường lối của vị tổng thống sau Obama.