khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 10 tháng 1, 2015

Ông Huỳnh bửu Sơn xác nhận:"Chính quyền Cách Mạng đã tiếp thu 16 tấn vàng của NHQGVN sau ngày 30/4/1975"



Trước và sau ngày 30/4/1975 báo chí phương tây cũng như trong nước đưa nhiều tin bài với nghi vấn nhà lãnh đạo VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tẩu tán số vàng dự trữ 16 tấn của Nam Việt Nam. Phải mấy chục năm sau Lịch sử mới được làm sáng tỏ.

Nam Nguyên phỏng vấn ông Huỳnh Bửu Sơn, người đã quản lý và chuyển giao số tài sản quốc gia đó cho chế độ mới. Trong biến cố lịch sử tháng 4/1975, ông Huỳnh Bửu sơn mới 29 tuổi tốt nghiệp Cao học Kinh tế Đại học Luật khoa Saigon. Ông Sơn thuộc nhóm lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và là người giữ chìa khóa hầm vàng. Từ Saigon trước hết ông Huỳnh Bửu Sơn phát biểu :"Ông cũng biết, số lượng vàng có trong hầm như thế nào, thì khi được tiếp quản và chuyển giao cho Ủy ban Quân quản của Ngân hàng Nhà nước lúc đó được giao toàn vẹn không thiếu một nút vàng nào cả. Chúng tôi thường gọi là nút vàng vì ngoài những thoi vàng tính cách ra, còn có những đồng tiền cổ, những đồng tiền vàng Napoleon nhưng mà buôn lậu sang Việt Nam bị bắt dưới hình thức những cái nút cài áo. Cho nên là khi được giao lại cho Ủy ban Quân quản thì toàn bộ vàng trong hầm bạc bao gồm cả những đồng tiền cổ đó được giao đầy đủ hết."



                                                            


                                                                                  ******

Mời đọc thêm:

http://www.quocgiahanhchanh.com/nguoigiuchiakhoa.htm


Hành trình kiếm tìm hài cốt tử sỹ VNCH, vào ngày 31 tháng 12 năm 2014 tại quận Hàm Tân, Bình Tuy, Viet Nam







Quần chúng thành Hồ ra biển lớn


Tấm ảnh chiếm ngôi vị thượng-hạng-ngọai-hạng giải nhiếp ảnh "Vĩa Hè Thành Hồ năm 2014". Tác giả Không Tên chụp tấm hình quảng cáo: ăn chuối chiên sẽ được bao trọn gói miển phí Wi-Fi

BA BỨC ẢNH NGHỆ THUẬT ĐẠT GIẢI NATIONAL GEOGRAPHIC TRAVELER PHOTO CONTEST 2014


Tác phẩm "Tận cùng thế giới" của Sean Hacker Teper đoạt giải nhì, chụp một người đàn ông ngồi xích đu nhìn về núi Tungurahua đang phun trào ở Banos, Ecuador.


Bức ảnh chiếm giải ba, được nhiếp ảnh gia Evan Cole chụp từ đỉnh đụn cát Tin-Merzouga lớn nhất khu vực Tadrat của sa mạc Sahara, phía nam Algeria.


 
Tác phẩm "Ngày Độc lập" của Marko Korošec đoạt giải cao nhất (Grand Prize) . Bức ảnh chụp cảnh lốc xoáy đang di chuyển ở gần Julesburg, Colorado, Mỹ ngày 28/5/2013




 



Thứ Sáu, 9 tháng 1, 2015

Mùa Giáng Sinh đầu tiên trong tù, 1975 - Tác giả Nguyễn Mạnh Tiến



Từ cuối năm 1974, chiến cuộc VN thay đổi hẳn vì sự chênh lệch giữa hai bên về tiếp tế và hỏa lực ngày càng rõ nét. Phía QLVNCH thì quân viện đã bị Quốc Hội Mỹ cắt giảm trầm trọng nên hỏa lực sút giảm thấy rõ. Phe Cộng sản thì được Nga và Trung Cộng tăng cường việc trợ ồ ạt, tải vào Nam một số lượng khổng lồ vũ khí gồm cả xe tăng hạng nặng và trọng pháo tối tân nhất. Tháng Ba năm 1975, tỉnh Phước Long bị CS đánh chiếm, không lâu sau đó đến lượt Ban-Mê-Thuột thất thủ, mở đầu cho những tổn thất và di tản liên tục của phía VNCH, đưa đến ngày Quốc Hận 30/4 khi miền Nam VN hoàn toàn bị CS chiếm.

Vào những ngày cuối của cuộc chiến, đơn vị tôi đóng tại Gò Dầu Hạ, cùng với Sư Đoàn 25 BB phụ trách mặt trận Tây Ninh, lúc bấy giờ đang bị áp lực nặng nề từ một lực lượng địch quân đông đảo gấp nhiều lần, với vô số xe tăng và trọng pháo, liên tục tấn công và pháo kích vào các vị trí đóng quân của ta. Chiều ngày 28/4, sau khi bị mất liên lạc với Quân Đoàn và Bộ Tổng Tham Mưu, trước tình hình vũ khí ngày càng hao hụt mà không có tiếp tế, cũng chẳng còn yểm trợ pháo binh hay phi cơ, lại phải chịu hỏa lực pháo khủng khiếp của địch, đơn vị quyết định di tản, mở đường máu băng đồng chạy về hướng Hậu Nghĩa. Chạy suốt đêm, bị địch truy kích liên tục, đơn vị rã thành những nhóm nhỏ. Đến sáng 29/4 thì nhóm của tôi gồm chừng hơn trăm người bị bộ đội CS vây kín. Kiểm lại thì chẳng còn bao nhiêu súng đạn, chúng tôi đành chịu bị địch bắt và giải vào nhốt trong một khu rừng thuộc mật khu Chà Rầy.

Ngày hôm sau thì nghe tin sét đánh: Dương Văn Minh đã đầu hàng, Việt Nam Cộng Hòa đã chính thức bị khai tử! Nhiều anh em trong chúng tôi đã bật khóc, lòng vô cùng đau đớn trước cái chết nhanh chóng không ngờ của miền Nam thân yêu.

Sau 1 tuần lễ bị giam, đến sáng sớm ngày 6/5, bộ đội và du kích CS tập họp hết mấy trăm tù binh VNCH bị giam tại khu rừng đó lại, đọc “Lệnh Tha” của “Cách Mạng”, thả tất cả mọi người vô điều kiện không phân biệt cấp bậc, cho về “trình diện tại địa phương”, chỉ cần “chấp hành tốt các qui định của chính quyền mới”. Không những thế, “Cách Mạng” còn phát cho mỗi tù binh mấy chục bạc để mua vé xe đò về nguyên quán!

Chúng tôi ngẩn ngơ, vì không ngờ họ lại thả mình dễ dàng như vậy, trong lòng không khỏi lấy làm lạ, có phần thầm phục cái “mã thượng” của “Cách Mạng”! Đi bộ mấy tiếng đồng hồ ra đến bến xe Trảng Bàng, chúng tôi gặp lại rất nhiều đồng đội bị bắt và giam ở chỗ khác, cũng được thả về, trong đó có cả ông Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, mấy ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng. Lại càng ngẩn ngơ, càng thấy “Cách Mạng” sao mà “khoan hồng nhân đạo” quá sức tưởng tượng!

Về nhà, tôi bước vào trước sự ngạc nhiên sung sướng của gia đình, vì thằng con bấy lâu mất tích ngoài mặt trận tưởng đã chết, nay bỗng trở về như một bóng ma! Trong những ngày sau đó, rất nhiều bạn bè của tôi, phần đông cũng là sĩ quan rã ngũ, nghe tin tôi về thì ghé thăm. Nghe chuyện phóng thích vô điều kiện mà tôi là chứng nhân trực tiếp, ai cũng lắc đầu le lưỡi, phục “Cách Mạng” sát đất!
Vài tuần sau đó, có lệnh tập trung các anh em binh sĩ, hạ sĩ quan “học tập tại chỗ” 3 ngày. Rồi sĩ quan cấp tá trở lên “trình diện học tập, đem theo 1 tháng tiền ăn”. Cấp tá vừa đi xong là đến bọn sĩ quan cấp úy chúng tôi bị kêu trình diện, “đem theo 10 ngày tiền ăn”. Tôi đến trình diện tại trường nữ trung học Gia Long vào chiều ngày 23/6/1975, gặp rất nhiều bạn bè cũng trình diện tại đó. Bữa ăn chiều hôm ấy, “Cách Mạng” đặt nhà hàng Soái Kinh Lâm ở Chợ Lớn nấu đồ ăn tầu mang vào phát cho anh em ăn. Ai nấy đều phởn phơ vui vẻ, cứ ngỡ rằng chỉ có 10 ngày mà ăn uống ngon lành thoải mái như thế thì có nhằm nhò gì! Ở trường Gia Long mấy hôm, đến chiều 27/6 một đoàn xe Molotova đến chở chúng tôi đi suốt đêm, đổ vào Trảng Lớn. Ở đó, cán bộ CS mà chúng tôi phải gọi là “Quản Giáo”, chia chúng tôi ra thành đội, thành tổ, vào ở trong những căn nhà bỏ hoang của một trại lính cũ. Họ kêu các đội lên lãnh thực phẩm mang về tự nấu, gồm gạo mốc, rau muống đã gần hư thúi và muối hột. Chúng tôi bắt đầu cảm thấy hơi kỳ kỳ, ngờ ngợ, nhưng vẫn còn bám vào cái tin tưởng “10 ngày”. Rồi màn tự khai đầu tiên xẩy ra, rồi tập họp học tập “Nội qui, Qui định”, “8 câu hỏi nhận thức”… 10 ngày qua đã lâu mà chẳng thấy động tĩnh gì, trong khi mọi chỉ thị, sinh hoạt đều mang dấu chỉ của một sự ở lại lâu dài.

Sự tương phản rõ rệt giữa thái độ “mã thượng” của “Cách mạng” lúc đầu và thực tế phũ phàng bấy giờ khiến chúng tôi mau chóng nhận ra là mình đã bị Cộng sản lừa ! Khi mới chiếm xong miền Nam vào 30/4/1975, họ chỉ nắm được trong tay, có nghĩa là đang bắt giữ được, giỏi lắm là 10% tổng số sĩ quan QLVNCH - trong đó có tôi và các sĩ quan trong đơn vị tôi. Đại đa số đã rã ngũ, lột bỏ quân phục, sống lẫn lộn rải rác trong dân chúng, muốn tìm bắt không phải là chuyện dễ. Mà đây lại chính là thành phần được CS đánh giá là nguy hiểm nhất cho chế độ mới, cần phải tập trung giam giữ bằng mọi giá. Những bộ óc lợi hại, xỏ lá nhất của “Cách Mạng” đã bày ra một mưu kế khá cao cường: thả con tép bắt con tôm! Khi họ phóng thích vô điều kiện những sĩ quan bắt được trong những ngày cuối của cuộc chiến như nhóm sĩ quan trong đơn vị tôi, thì chính chúng tôi là những nhân chứng sống cho cái gọi là “khoan hồng nhân đạo” của “Cách Mạng”, khiến các anh em còn tại đào tin tưởng. Vì thế mà khi có lệnh gọi trình diện thì đại đa số sĩ quan còn ở ngoài đều chui đầu vào rọ, CS tóm gọn một mẻ lớn ngon ơ!!! Họ đã tính toán rất kỹ và ấn định trình tự gọi “trình diện học tập” rất bài bản để không ai có thể nghi ngờ gì. Qua sự việc này, CSVN đã chứng tỏ rõ ràng khả năng điếm đàng lưu manh đệ nhất, xứng đáng là bậc thầy của mọi tập đoàn độc tài gian ác trên thế giới! “Thấp cơ thua trí”, chúng tôi bị lừa một quả lớn, lớn quá! Khi tỉnh ra thì cá đã nằm trong rọ!!!

Trong thời gian 8 tuần lễ ở Trảng Lớn, tôi biết ở trại bên có một anh Dược sĩ cùng khóa 20 Quân Y Hiện Dịch với tôi, Trung úy Mai Gia Thược, trong cơn tuyệt vọng đã tự tử bằng một quả lựu đạn lượm được khi đi lao động. Tinh thần của tất cả các trại viên đều sa sút, ai cũng buồn bã, bi quan vì không biết tương lai sẽ đi về đâu, tựa như ở tù mà không hề có bản án, không biết ngày nào ra.

Ngày 17/8/1975, cán bộ CS tập họp toàn bộ trại viên, chia thành từng nhóm. Họ dùng một danh từ mới lạ tai là “biên chế” để chỉ việc làm này. Rồi từng nhóm được lệnh lên Molotova, di chuyển về những trại khác nhau. Nhóm tôi được đưa vào doanh trại cũ của Tiểu đoàn Pháo binh Sư đoàn 18 nằm gần thị xã Long Khánh. Lại có màn chia đội, tổ, v.v... Rồi bắt đầu các công tác gọi là “ổn định chỗ ăn chỗ ở”, tức là sửa lán trại, đào giếng lấy nước xài, khai quang khu vực chung quanh…v.v... Rồi đắp nền, xây “Hội trường” để “sửa soạn bước vào học tập”.

Trong các trại viên, các anh lớn tuổi, có gia đình con cái rồi thì hẳn là lo buồn, rầu rĩ hơn bọn trẻ chưa vợ chưa con như lũ chúng tôi. Mà còn buồn hơn khi những dịp lễ, dịp nghỉ lớn trước kia của mình, như Giáng Sinh và Tết Nguyên Đán, vì càng thêm nhớ gia đình và không khí xum họp vui vẻ những ngày xưa… Tay Chính Trị Viên của Tiểu đoàn Bộ đội CS quản lý trại tôi là một anh già người miền Trung, tên là Năm Sinh. Tay này hay tập họp cả trại lại để “lên lớp” - chữ của “Cách mạng”, thí dụ như “Quán triệt chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước”, “Giải thích thêm về Nội qui, Qui định”. Y nói lè nhè, vừa nói vừa đi tới đi lui, tay chắp sau đít, mặt luôn luôn ngước lên trần nhà. Bọn trẻ chúng tôi ngồi tít phía sau, thường lén chơi cờ croix-zero với nhau hoặc lơ mơ suy nghĩ chuyện riêng, dư biết những gì hắn nói chỉ như là một đoạn băng rè phát ra từ một cái máy thu âm cũ, có nghĩa là học thuộc lòng bài bản do Đảng giao cho rồi cứ thế mà “bài tiết” lại! Đôi khi, sự dốt nát của những tay cán bộ CS này cũng mua vui cho chúng tôi được đôi chút. Tôi nhớ lần “lên lớp” trước mùa Giáng Sinh đầu tiên trong tù năm 1975, sau khi đọc lệnh cấm trại viên tụ tập cầu nguyện trong dịp lễ này, Năm Sinh gật gù nói với vẻ đắc ý : “Các anh nên nhớ là Kinh Thánh đã dạy rằng “Phật tức tâm, tâm tức Phật”, nên đâu cần gì phải tụ họp cầu nguyện?”. Cả lũ tù cười ồ, trong khi mặt y ngớ ra, ngạc nhiên không hiểu tại sao!

Mùa Giáng Sinh đầu tiên trong trại trôi qua trong tẻ nhạt. Mọi trại viên đều thấm thía về thân phận cá chậu chim lồng, không ai còn mơ hồ gì nữa. Rồi Tết đến, cũng một bầu không khí ảm đạm, thê lương y hệt như thế. Cũng may là Ban Quản Giáo cho gia đình gửi quà Tết lên cho bọn tù từ tuần trước, nên anh em cũng có tí đồ ăn “cải thiện”, vui vẻ với nhau một chút trong mấy ngày Tết.

Thời gian trong tù chẳng bao lâu sau đã chứng tỏ rõ ràng khả năng dồi dào và đa dạng của các cựu sĩ quan quân đội miền Nam, khác hẳn bọn sĩ quan quản giáo, rặt là một lũ vô học, không có trình độ, dốt nát ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Chỉ với tay không và óc sáng tạo, anh em chế ra đủ thứ. Trước tiên là các dụng cụ để làm việc, họ dùng các tấm sắt đường rầy xe lửa cũ, các thứ vật liệu phế thải thu nhặt được mà làm ra mọi thứ: từ cuốc, xẻng, xà beng…v.v... cho đến “xe cải tiến”, ròng rọc gỗ, lò rèn và ống bễ... Nhiều anh em có những khả năng đặc biệt, thí dụ như anh Nguyễn Thanh Thu, họa sĩ kiêm điêu khắc gia, người tạc bức tượng Thương Tiếc nổi tiếng đặt trước Nghĩa Trang Quân Đội bên lề Xa lộ Biên Hòa, được các quản giáo chiếu cố tận tình, nhờ vẽ hết cái này đến cái khác.
Còn nhớ có một anh quản giáo tên là Tý, mà chúng tôi gọi là anh Quản Bia, vì anh có bộ mặt đần độn và hàm răng vẩu, trông giống y hệt như hình tên VC trên tấm bia tập bắn ở các quân truờng. Anh này đem xuống cho anh Thu tấm hình bà vợ, một chị nhà quê miền Bắc tiêu biểu, đầu quấn khăn vành dây có đuôi gà, răng đen mã tấu, mặt rỗ hoa, mắt lác xệch. Anh Quản Bia cung cấp giấy croquis vẽ, màu nước…v.v... không biết kiếm ở đâu ra, bắt anh Thu vẽ cho bà vợ một bức họa chân dung, với yêu cầu là phải “hiện đại hóa” cho thành phụ nữ tân thời, nguyên văn lời anh là “giống như phụ nữ miền Nam”! Vài ngày sau, anh Thu trình tác phẩm nghệ thuật đã hoàn tất: chị vợ nhà quê nay môi son má phấn, mặt hết rỗ, mắt không còn lác, tóc phi-dê ngon lành, đeo bông tai, vòng vàng đàng hoàng, trông rất chi là hiện đại và sang trọng. Anh Bia hài lòng lắm, bèn thưởng cho anh Thu mấy tán đường thẻ, hí hửng đem tranh về cất kỹ, đợi dịp đi phép sẽ mang về Bắc làm quà cho vợ!

Sau này anh em tù “ngụy” có phong trào đi lượm những mảnh bom, mảnh nhôm vụn. Những khi rảnh rỗi ngoài giờ lao động, cả trại thi nhau hì hục cưa, mài, dũa… làm lược, làm trâm cài tóc… để mai này tặng vợ con khi có dịp. Những tấm tôn phế thải được đem về đập cho thẳng, cưa ra, gò thành gầu múc nước, nồi, chảo, thùng… để dùng hàng ngày. Anh em còn làm cả những chiếc va-ly đựng đồ, có khóa đàng hoàng, trông rất “chiến”, chỉ thua va-ly samsonite chút đỉnh. Các anh quản giáo trông thấy, suýt soa khen đẹp, và đều xuống đặt làm cho mỗi anh một hai cái, chờ đi phép sẽ xài. Tuyệt vời hơn, anh em bắt đầu “chế” đàn guitare, thùng đàn gò bằng tôn, cần đàn thì đẽo bằng gỗ củi, dùng dây điện và dây điện thoại xe lại làm đủ bộ 6 dây đàn, từ dây “mì” thấp nhất đế dây “mí” cao nhất. Từ những cây đàn đầu tiên còn thô sơ chưa được chính xác và nghe chưa hay, qua kinh nghiệm dần dần kỹ thuật được cải tiến nên những cây đàn làm về sau trông đẹp hơn và nghe rất được. Nghe nói ở trại khác, anh em còn làm cả vĩ cầm, có archet kéo đàng hoàng! Rồi trong trại nổi lên phong trào học nhạc, anh này dạy anh kia, cho qua thời giờ rảnh sau khi lao động mệt nhọc.

Tôi được một anh bạn gò tặng cho cây đàn, sướng quá vì vốn mê nhạc mà đã lâu không được chơi. Cùng tổ với tôi, người tôi thân nhất là NNN, giáo chức, Trung úy biệt phái, mà chúng tôi gọi là Giáo Ngạn. Thân với hắn vì cả hai thằng đều khoái văn nghệ, đều có máu tếu và đều “phản động ngầm”. Thí dụ như bài hát ca tụng già Hồ: “Bác đến từng nhà, thăm các cụ già, cầm tay chúng con, bác bắt nhịp bài ca Kết Đoàn”, được chúng tôi sửa lời thành: “Bác đến từng nhà hăm các cụ già, còng tay chúng con, bác bắt buộc người ta kết đoàn…”, hát nho nhỏ với nhau rồi khoái chí cười hinh hích! Người ta đâu có muốn “kết đoàn” theo kiểu của “Bác” đâu, nhưng bị “Bác” bóp cổ bắt buộc nên rất chán!

Có được cây đàn, tôi và Giáo Ngạn tối tối nghêu ngao ca hát các loại “nhạc vàng”, vì thời còn trẻ tôi thuộc lòng rất nhiều nhạc cả VN lẫn ngoại quốc. Tiếng đồn bay xa, dần dần anh em các đội tổ khác muốn nhớ lại “hương xưa”, mời chúng tôi đi “du ca”, hát “nhạc yêu cầu”, đổi lại anh em đãi chúng tôi thuốc lào, chè cháo! Được mấy tháng thì chuyện “du ca” bị chấm dứt sau khi chúng tôi bị quản giáo và vệ binh rình bắt quả tang, may chỉ bị làm kiểm điểm. Báo hại các anh em trong đội tôi cả mấy buổi tối phải “ngồi đồng” sau giờ lao động, kiểm thảo phê bình chúng tôi thay vì có thời giờ làm việc riêng, nên phàn nàn quá xá!

Cuối tháng 8 năm 1976, chúng tôi bị lùa lên hội trường, bắt đầu “học” bài đầu tiên của loạt “10 bài học cải tạo dành cho sĩ quan chế độ cũ”, do cán bộ chính trị từ Trung đoàn xuống “lên lớp”, to chuyện lắm. Nói chung thì các bài bản của CS đều là thứ tuyên truyền rẻ tiền, với những tiêu đề đại loại như “Đế quốc Mỹ to nhưng không mạnh”, “Đế quốc Mỹ: con đỉa hai vòi”, “Ba giòng thác Cách mạng”, “Nhiệm vụ xây dựng tổ quốc trong thời đại mới”… Bọn tôi xách cái ghế con lên ngồi giả vờ nghe, nhưng kỳ thực hoặc đánh cờ, hoặc “bút đàm” với nhau, hoặc ngủ gật. Lên lớp xong rồi, cán bộ còn ra lệnh phải về họp tổ thảo luận, đào sâu thêm để sau đó làm “thu hoạch” cho tốt! Tổ tôi cũng phải họp lại vào buổi tối cho có lệ, nhưng bàn với nhau cử hai “lính gác giặc”, một anh thủ cửa trước, một anh cửa sau, còn mọi người ai nấy cứ làm việc riêng - anh thì vá quần áo, anh thì dũa lược nhôm, anh thì đánh cờ tướng…v.v... Khi thấy có quản giáo hay vệ binh xuất hiện từ xa là “lính gác giặc” báo động, tất cả các đồ linh tinh biến mất trong chớp mắt, nhìn vào người ta chỉ thấy cả tổ đang ngồi nghiêm chỉnh, nghe một tổ viên (dĩ nhiên là đã có cắt cử từ trước) đang thao thao phát biểu, đúng y chang yêu cầu học tập! Theo nhận xét và kinh nghiệm của cá nhân tôi, đại đa số anh em tù chỉ vờ vịt, vì trót lâm vào cảnh “cá nằm trên thớt” nên đành cắn răng “nín thở qua sông” cho qua chuyện, chứ học tập học tiếc cái gì! Chẳng đời nào CS “cải tạo” được các cựu sĩ quan QLVNCH!

Thấm thoắt đã lại gần Tết, cái Tết thứ nhì trong tù cải tạo. Các trại viên sau hơn một năm bị tù, dường như đã cam phận hơn và chấp nhận thân phận tù đày không biết ngày ra. Trong hoàn cảnh ấy, làm gì cho vui một chút thì vẫn hơn là rầu rĩ, suốt ngày nhìn trời hiu quạnh! Cán bộ trại cũng ra lệnh cho trại viên sửa soạn văn nghệ đón Xuân để ra điều là “an tâm cải tạo”.

Các đội, tổ được phân công dựng sân khấu ngay tại hội trường chính. Anh Nguyễn Thanh Thu xin cán bộ cung cấp vải và sơn để trang trí sân khấu. Anh thực hiện hai tấm vải treo dọc hai bên cánh gà, vẽ hai con hạc rất đẹp, đối xứng với nhau, ngóc mỏ nhìn lên mặt trăng màu vàng trên nền trời đêm đen bạc. Cán bộ xuống xem, tấm tắc khen. Anh Thu nói nhỏ với tôi :”Mấy thằng cán bộ này ngu thiệt! Tôi vẽ hai con hạc đứng một mình này có ý nghĩa là bọn mình cô đơn trong tù, nhìn trăng nhớ nhà, rầu thúi ruột, mà tụi nó không hiểu, cứ khen tới…”

Ngày mồng một Tết năm ấy, trại viên cũng làm đầu lân bằng tre và giấy bồi, đi múa khắp trại, có cả ông Địa phe phẩy quạt. Giáo Ngạn mặc quần tây, áo sơ mi trắng đem theo từ lúc đi trình diện cải tạo, chơi thêm cái cà-vạt làm bằng bao cát, đi vòng vòng chúc Tết anh em “mau chóng cải tạo tốt để được về sớm”. Tôi phụ trách ban nhạc gồm hơn chục anh em, mỗi người một cây đàn tôn, cũng ráo riết tập dợt. Trong buổi trình diễn đón Xuân, Giáo Ngạn vẫn trong bộ đồ kẻng, đeo cà-vạt, làm MC. Có lẽ đó là lần làm MC đầu tiên trong đời của hắn, có thể cũng là điềm báo hiệu sự nghiệp MC sau này chăng?
Ban nhạc chúng tôi thì ngoài mấy cây đàn guitare tôn, còn có một bộ trống cũng gò bằng tôn, phất giấy có thoa nước cơm đặc nhiều lần cho cứng, và một cây contre-basse làm bằng một cái thùng phuy cưa đôi, dây bật phình phình, cũng xôm tụ ra phết. Chúng tôi hòa tấu bài “Those were the days” (khi nộp chương trình văn nghệ cho “khung”, tôi khai là nhạc Liên xô). Bài hát này thời trước 75 khá phổ thông, và lời ca tiếng Anh, nếu ai biết, cũng rất thấm thía đối với hoàn cảnh chúng tôi bấy giờ, ngụ ý nhớ tiếc những ngày vui cũ: “Those were the days, my friend - We thought they'd never end - We'd sing and dance forever and a day - We'd live the life we choose - We'd fight and never lose - 'Cause we were young and sure to have our way…” Dĩ nhiên anh em tù cải tạo rất khoái, vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Cũng may là không có tay ăng-ten nào đâm thọc, nên chúng tôi không bị rắc rối. Tối về thì tổ anh nuôi phát cho anh em mỗi người một mẩu thịt heo bé tí, đặc ân của “Cánh mạng” đãi ngộ bọn tù nhân dịp Xuân về… Từng nhóm nhỏ, chúng tôi gom chung đồ tiếp tế, pha cà phê hoặc trà, nấu nồi chè đậu xanh, ngồi quây quần trò chuyện tới khuya, ngậm ngùi nhắc những kỷ niệm Tết vui những ngày xưa cũ…

Không lâu sau cái Tết năm ấy, trại viên lại được lệnh “biên chế”, từng đội từng tổ lại bị xé ra, ráp trở lại thành những nhóm mới, đi đến những địa điểm tù khác nhau. Thì ra đây cũng nằm trong kỹ thuật “giam tù phản động” của Cộng sản: họ sợ rằng để bọn tù ở chung với nhau lâu ngày thì sẽ kết bè kết nhóm, thân nhau tin nhau đủ để có thể âm mưu tổ chức trốn trại hoặc nổi loạn. Vì thế cứ độ hơn một năm là họ “biên chế”, chẻ nát các đội, tổ, xào xáo lung tung và chia thành nhiều nhóm mới, chuyển đến nhiều trại mới khác nhau để tránh hậu họa. Kỹ thuật này do quan thầy Liên Xô và Trung Cộng nghiên cứu và áp dụng thành công từ bao nhiêu năm, nay đệ tử Việt Cộng dùng để khống chế bọn tù “ngụy”.

Mới đó mà đã ba mươi mấy năm. Những bạn tù hồi đó, người may mắn vượt thoát ra ngoại quốc, kẻ còn ở lại sống chật vật dưới chế độ CS. Điều lạ lùng là có những người trước đây ở trong tù khốn khổ thì giữ được tư cách, lập trường, đáng mặt trượng phu, mà khi vượt biên thành công, ra ngoài sống thoải mái ở nước tự do thì lại dần dà biến chất, lập trường chao đảo một cách quái đản khó hiểu, thậm chí còn ra mặt ca tụng cảnh “phồn vinh” bây giờ của Saigon, thán phục trình độ ăn chơi sang trọng của tầng lớp cán bộ CS ăn trên ngồi trước mà nay họ được “hân hạnh” quen biết! Nói chuyện với những người ấy, có khi mình có cảm tưởng là thằng bạn tù ngày xưa đã chết, người mình đang gặp đây là một nguời khác, một người hoàn toàn xa lạ! Giáo Ngạn thì từ mười mấy năm nay, kể từ sau vụ Paris By Night “B40”, chắc là ngượng ngùng nên dù qua Úc nhiều lần nhưng chẳng liên lạc với ai nữa. Thì thôi! Điểm chung đã không còn, có gặp nhau cũng chỉ là gượng gạo, thà là nghỉ cho rồi!
Trại tù L9T5 Long Khánh của chúng tôi có được hơn chục anh em cựu tù cùng sống tại Sydney, từ 1994 đến nay năm nào cũng họp mặt mỗi cuối năm, hàn huyên chuyện cũ chuyện mới. Những mái đầu xanh ngày xưa giờ đã lốm đốm bạc. Trong nhóm cũng đã có người ra đi vĩnh viễn. Vài anh em ở đây hàng năm vẫn chung góp để tiếp tế cho một vài bạn tù hồi đó nay còn ở VN, giúp họ có được một cái Tết tương đối tươm tất cho gia đình.


Nhớ lại những kỷ niệm xưa mà lòng không khỏi bồi hồi. Và buồn vì không biết bao giờ mới được về thăm một quê hương Việt Nam, khi thực sự có tự do dân chủ...

 

Đèn Cù của Trần Đĩnh, tập hai



https://drive.google.com/file/d/0BzlDhQ4ilcR9azNYQXN4Rnh4bGc/view?usp=sharing

Làm Chứng Gian







Mùa thu và ...thịt chó, và ... phở - Tác giả Nguyễn xuân Thiệp






 


Dạy con trẻ thói lưu manh - Tác giả Huy Phương





Nếu bạn đặt một câu hỏi với đứa cháu của bạn, “Mùa này theo cháu, ở đâu lạnh nhất?” Bạn nghĩ sao, thay vì câu trả lời là ở Oymyakon, nước Nga hay Nam Cực, thì thằng bé trả lời bạn, đó là ở trong tủ lạnh? Một câu trả lời khá hỗn láo, không phải là câu giải đáp của một đứa trẻ hiền lành, tử tế.

Một câu hỏi vớ vẩn khác, “Vì sao một người rơi xuống sông mà không ướt tóc?” Trong khi bạn đang phân vân, chưa biết trả lời sao thì thằng bé đã trả lời thay bạn, “Vì người đó trọc đầu.” Các bạn có thể bật cười cho rằng đứa trẻ nhanh trí, thông minh, nhưng rõ ràng đây là thứ lém lỉnh ngoài đường phố, mà không bao giờ chúng ta muốn cho con em có thứ thông minh, nhanh trí kiểu láu cá như vậy!

Bạn sẽ gặp phải một câu hỏi khác khá dơ bẩn, nhưng lại được in trong một cuốn sách để giáo dục trẻ em. Câu hỏi là, “Cứt gì có thể lấy tay móc?” và sau đây là câu trả lời, “Cứt mũi, cứt mắt, cứt tai!”

Hoặc, “Trong con mắt của người đang yêu, bạn gái của họ đều là Tây Thi, vậy trong con mắt của Tây Thi thì có gì? Đáp, “Dử mắt (ghèn)!”

Trước bàn viết chúng tôi là một bộ sách loại bỏ túi, khổ nhỏ, gồm có bốn tập, mang nhan đề “Hỏi Đáp Nhanh Trí” do tác giả Đức Trí sưu tầm biên soạn, nhà xuất bản Văn Hóa-Thông Tin, số 43 Lò Đúc, Hà Nội, ấn hành, mỗi cuốn bán 14,000 đồng Việt Nam. Nội dung tập sách là một thứ văn hóa, giáo dục lưu manh thô lỗ, được trình bày dưới dạng “hỏi-đáp” tràn đầy trong gần 800 trang sách.

Chúng tôi xin dẫn chứng thêm những điều tệ hại trong bộ sách này để các bạn có thể hiểu thêm loại văn hóa tồn tại và đang phát triển mạnh mẽ trong xã hội bây giờ. Câu trả lời, trong nước bây giờ gọi là “đáp án.”

Hỏi: Kiểm tra cuối kỳ, Tuấn bị điểm 0 liền 6 môn, điều này chứng minh cái gì?
Đáp án: Chứng minh cậu ta không hề quay cóp.

Hỏi: Cái gì còn nhỏ hơn cả vi khuẩn?
Đáp án: Con của vi khuẩn.

Hỏi: Tại sao cổ của hươu cao cổ lại dài như vậy?
Đáp án: Tại vì nó thích chơi trội.

Hỏi: Người nào thích bóng tối nhất?
Đáp án: Những người yêu nhau!

Hỏi: Tại sao Cường ngủ gật trên lớp mà không bị thầy giáo phê bình?
Đáp án: Vì thầy giáo không nhìn thấy.

Hỏi: Loài vật nào không bị muỗi đốt?
Đáp án: Là con muỗi!

Hỏi: Khi thả chim bồ câu thì ai vui nhất?
Đáp án: Chim bồ câu!

Hỏi: Đa số vĩ nhân đều sinh ra ở đâu?
Đáp án: Trong nhà hộ sinh.

Hỏi: Nên làm gì khi cây kim rơi xuống biển?
Đáp án: Đi mua cây kim khác!

Hỏi: Vì sao về mùa Đông, chim én lại bay về phương Nam.
Đáp án: Vì nó đi rất chậm!

Hỏi: Đánh cái gì vừa không tốn sức lại rất thoải mái.
Đáp án: Đánh một giấc!


Và văn hóa “búa liềm” này luôn ẩn náu một tâm tính ác độc:

Hỏi: Ông A bị chặt đầu lúc 40 tuổi, vậy con cái ông A bị làm sao?
Đáp án: Bị mồ côi!

Hỏi: Một người sau khi bị chặt đầu sẽ thế nào?
Đáp án: Biến đổi chiều cao!

Hỏi: Làm thế nào khi gặp người sống?
Đáp án: Phải luộc chín!


Trong sách còn có những câu chuyện khó hiểu, ngu ngốc, ngớ ngẩn và vô nghĩa. Đây là một vài ví dụ:

Tại sao mũi bị tẹt?

Một hôm, một bé trai 4 tuổi hỏi ông nội:

- Ông ơi! Vì sao mũi của ông không giống của cháu, tại sao mũi của ông lại bẹt?
- Bởi vì khi còn nhỏ, ông không cẩn thận đã giẫm lên mũi của mình nên mũi của ông bây giờ bị bẹt!


Hỏi: Làm cách nào để mọi người không uống nước?
Đáp án: Đổi tên của nước (?)
-
 Khi ta có một hình tứ giác, vậy có 4 góc, ta cắt bỏ một hình tam giác ở giữa, tương đương ba góc, ta sẽ có một hình ngũ giác, có 5 góc. Vậy ta có: 4-3= 5!

Sách soạn ra nói là để dạy cho trẻ “hỏi đáp nhanh trí,” nhưng chính là để dạy con trẻ lưu manh, tập dối trá, như câu chuyện dưới đây:

Vẫn còn đang tắm

Cô gái đang rửa bát đĩa ở trong bếp thì có tiếng chuông điện thoại vang lên, người mẹ muốn tìm mẹ của cô gái, cô gái trả lời: “Mẹ cháu có lẽ đang tắm, bác đợi một lát để cháu đang tìm.”
Cô gái vặn vòi nước thật to, tạo âm thanh ồn ào và trả lời điện thoại nói, “ Mẹ cháu vẫn đang tắm.”

Xếp hàng

Một quý bà chạy vội vàng đến trước quầy thịt và lớn tiếng: “Ông chủ, bán cho tôi 10 ngàn đồng thịt bò cho chó.” Sau đó bà quay sang một quý bà khác đang đứng chờ và giải thích: “Cô thông cảm, tôi đã xếp hàng ở đây trước rồi!”

Thêm ba cuốn tự điển tiếng Việt “kiểu Vũ Chất” vừa được xuất bản tại Hà Nội với kiểu giải nghĩa “ba phải” như: “Chú bác: nói chung chú và bác!” “Cào cấu: Cào và cấu.” “Tao đàn: Chỗ nằm của tao nhân thi sĩ!” Điều này chứng minh rằng những người soạn sách (thường không thấy ghi tiểu sử - hoặc có bằng đại học mua ở chợ trời) không trí tuệ mà cũng chẳng đạo đức, là những người dốt nát, thất học, thiếu tự trọng, vô lại, sao chép. Nhà xuất bản thì do những người ngu dốt cầm đầu, thiếu lương tâm, vùi đầu vào lợi nhuận.

Về phía chính quyền, nhất là trong ngành văn hóa, thì những viên chức, cán bộ trong ngành xuất bản, thường là dốt nát, cũng là loại phi văn hóa, vô giáo dục. Họ chỉ biết ngậm miệng ăn tiền và biết báo cáo về số lượng xuất bản mỗi năm để nêu thành tích, dù với cái đống rác sách vở vĩ đại, đưa cả một thế hệ vào chỗ ngu dốt, lưu manh.

Tập giấy lộn mang tên “Hỏi Đáp Nhanh Trí” xấu hổ phải mang trên là “một cuốn sách,” nó dạy cho trẻ em kiểu nhanh trí, lanh mưu, không cần trí tuệ, học hỏi để hiểu biết, mà đối đáp cho xong, đào tạo cho chúng trong tương lai, trở thành những người giảo hoạt, lưu manh theo nhu cầu trồng cây ngắn ngày của “bác” và nhu cầu của “đảng” đào tạo những mầm non ngây ngô của dân tộc trở thành những công dân xảo trá mai hậu.

Về chuyện “sao chép,” nếu xem kỹ thì đây là một cuốn sách được “luộc” lại từ một loại rác rưởi của Trung Cộng, với hình minh họa nguyên gốc của Tàu, còn rõ những chữ Tàu trên hình vẽ.

Chỉ thị của Lê Duẩn sau 30 Tháng Tư, 1975, kỳ họp Quốc Hội Khóa 5: “Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để!”

Miền Bắc đã tịch thâu, thiêu hủy, bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn sách giá trị của miền Nam, để bây giờ, 40 năm sau, nhà nước Cộng Sản cho in ra những loại sách rác rưởi như cuốn sách trên. Phải chăng đó là “cách mạng văn hóa” của những người Cộng Sản.

Chúng ta tự hỏi, con em mình nếu phải lớn lên trong nước, sẽ học được gì trong những cuốn sách như loại này.

JE SUIS CHARLIE - Tưởng niệm Trần văn Bá (1985-2015)



Ngày 8 Tháng Giêng năm 1985, nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội tuyên án tử hình ba chiến sĩ phục quốc thuộc Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Ðó là các ông Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và Trần Văn Bá. Ðây là một tin dữ đối với người Việt trong và ngoài nước, cũng như đối với các dân tộc yêu chuộng tự do dân chủ trên thế giới. Mọi người đều lên án chế độ cộng sản Hà Nội và xem đây là một thái độ thách thức lương tâm loài người. Riêng trường hợp người thanh niên Trần Văn Bá, hành động vị quốc vong thân của anh là một đại tang đối với Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris và với những người trẻ khắp nơi trên thế giới.

Trần Văn Bá sinh năm 1945 tại Sa Ðéc. Anh lớn lên với ruộng đồng miền Nam và đã được un đúc, thừa hưởng tinh thần bất khuất của cha ông. Năm 1966, thân phụ của anh là Dân Biểu Trần Văn Văn đã bị cộng sản sát hại. Cái chết của cha bắt buộc anh phải rời bỏ quê hương, xa gia đình, xa bạn bè để sang Pháp sống và theo học tại Paris. Anh tốt nghiệp cao học kinh tế năm 1971 và sau đó làm giảng viên của Ðại Học Nantes. Song song với việc học, anh tích cực hoạt động trong phong trào sinh viên và trở thành Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris trong nhiều nhiệm kỳ, từ năm 1973 đến 1980. Chính Trần Văn Bá đã đem đến cho Tổng hội Sinh viên tại Paris một sinh khí mới. Ðể un đúc lòng yêu quê hương và tạo dịp cho các sinh viên thành tài về phục vụ đất nước, Trần Văn Bá đã tổ chức các chuyến về thăm nhà trong mùa Hè năm 1973. Từ đó, các hội đoàn ở Pháp và các nước Âu Châu khác đã liên lạc và gắn bó với nhau trong mọi sinh hoạt để chuẩn bị cho sự ra đời của Ðại hội Việt Nam Âu Châu những năm sau này.


Trong suốt mùa Hè năm 1973 tại quê nhà, Trần Văn Bá hầu như không bao giờ vắng mặt trong các hoạt động của thanh niên sinh viên. Từ những đêm hát cộng đồng, đi công tác ủy lạo chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại các tiền đồn ở Quảng Trị, ở Bastone, ở Rừng Sát, cho đến cứu trợ nạn nhân chiến tranh; đâu đâu cũng có mặt Trần Văn Bá.

tran_van_ba_6
Trần Văn Bá (hàng đầu thứ nhì từ bên phải) tại Nghĩa trang Ba Đồn
nơi chôn tập thể nạn nhân Tết Mậu Thân ở Huế.
(Hình do Trần Đại Lộc chụp năm 1973)


Trần Văn Bá thâm trầm nhưng không xa cách. Trần Văn Bá ít nói, nhưng khi lên tiếng thì say sưa và nội dung phát biểu rất sâu sắc. Trần Văn Bá có cái bớt đỏ trên trán bên tay mặt, khiến cho anh khó có thể bị lẫn lộn với những người chung quanh.

Những ngày Hè năm đó, Trần Văn Bá thường mặc chiếc áo lính mà anh xin được của một binh sĩ tại đặc khu Rừng Sát và đem chiếc áo khi quay trở lại Pháp. Không biết sau này, khi anh về khu chiến phục quốc, chiếc áo lính bạc mầu đó có được theo chân Trần Văn Bá hay không.

Ngày 30 Tháng Tư, năm 1975, cộng sản chiếm miền Nam, đất nước bị quy về một mối. Nói theo cách diễn đạt trong thơ của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, dân tộc bị dìm trong một mối căm hờn, một mối oan khiên.

Trong giai đoạn bàng hoàng ngay sau biến cố sẩy đàn tan nghé đó, Trần Văn Bá đã bôn ba khắp nơi để kêu gọi mọi người phải tiếp tục đấu tranh. Anh thường thổ lộ với bạn bè rằng, biết bao người đã nằm xuống, chúng ta không thể ngồi yên được.

Một người bạn sinh viên từng gắn bó với Trần Văn Bá trong giai đoạn sau 1975 và hiện đang sống tại Úc là chị Phan Thị Ngọc Dung nói, “Tôi quen biết anh Trần Văn Bá vào khoảng đầu năm 1975 khi tôi bắt đầu hoạt động với Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, lúc ấy anh Bá là chủ tịch nên tôi xem anh như một đàn anh vừa lớn tuổi hơn, vừa kinh nghiệm hơn về hoạt động. Ðiểm nổi bật của anh Bá là sự triệt để và dấn thân của anh. Tôi rất ngưỡng mộ anh ở điểm anh dám sống tới cùng cho lý tưởng của mình đối với đất nước. Hầu hết anh em tuy hoạt động nhưng cũng lo đi học, khi ra trường, đi làm, có bạn trai, bạn gái và lập gia đình. Anh Bá thì khác hẳn, anh dấn thân triệt để và trọn vẹn, anh bỏ rất nhiều thì giờ để gặp người này, người kia để liên lạc, vận động, không phải chỉ riêng gì ở Paris mà còn ở các nước khác ở Âu Châu. Anh cũng là một người biết rất nhiều tin tức và anh em luôn kinh ngạc là tại sao anh biết nhiều thế, không biết từ đâu mà anh có những tin tức này. Sau 1975 thì anh Trần Văn Bá trầm ngâm hơn, lâu lâu trong câu chuyện nói với tôi anh phải về Việt Nam mới được.”

Tết năm Kỷ Mùi 1979, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tổ chức đêm văn nghệ tại Paris, cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới và tràn ngập cả hội trường Maubere với sự tham dự của hàng ngàn khán giả. Ðây là một sự thể hiện sống động nhất tinh thần của những người không chấp nhận ngày 30 Tháng Tư 1975 là sự kết thúc công cuộc đấu tranh vì hạnh phúc tự do của dân tộc.

Ðối với Trần Văn Bá, tất cả các hoạt động tại hải ngoại cũng chỉ nhằm chuẩn bị cho một ngày về chiến đấu ngay tại quê nhà. Trong đêm văn nghệ Tết năm đó, Trần Văn Bá nói những lời cuối, trước khi anh về khu chiến phục quốc,

“Kính thưa quý bác, anh chị em Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris rất hân hoan đón tiếp quý vị trong đêm hội Tết Kỷ Mùi; sự hiện diện quý báu của quý bác và quý anh chị là một khích lệ lớn lao cho tập thể sinh viên. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ quý vị đã luôn luôn dành cho sinh viên sự ủng hộ nồng nhiệt nhất trên mọi phương diện, cụ thể là đêm hôm nay đã thành tựu với sự giúp sức tận tình của các phụ huynh và nhất là do sự đóng góp tích cực của hơn 1 ngàn sinh viên trong ròng rã 3 tháng trời.

Kính thưa quý bác, thưa quý anh chị, cảm tình mà quý vị dành cho sinh viên nói lên sự tín nhiệm và sự mong ước của quý vị nơi giới trẻ để đáp lại nguyện vọng thiết tha của nhân dân trong 30 năm chiến tranh tàn phá đang bị đè nén tại quê nhà, ách thống trị khát máu đang áp đặt đã tước đoạt mọi quyền làm người của người dân Việt Nam, xô đẩy hàng trăm ngàn đồng bào phải bỏ xứ ra đi bất chấp mọi hiểm nguy; chính sự can trường của đồng bào vượt biển trước chết chóc và đời sống cơ cực trong các trại tạm cư tại Ðông Nam Á đã làm chấn động dư luận thế giới, vì thế nhiều quốc gia và đoàn thể không nỡ làm ngơ trước thảm nạn của cả trăm ngàn đồng bào, đã có hảo tâm muốn cứu vớt và giúp đỡ người tị nạn.
 
Những thái độ cao thượng đó dù sao cũng chỉ có tính cách nhất thời nhằm xoa dịu thương đau của những người ra đi chứ không giải quyết vấn đề ở căn bản. Vấn đề tị nạn là hậu quả của việc vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, người dân bỏ xứ ra đi là vì mọi quyền làm người của họ bị tước đoạt, an ninh bị đe dọa; như thế nguồn gốc của vấn đề tị nạn nằm ở Việt Nam, vấn đề chỉ có thể giải quyết tại Việt Nam mà thôi. Giải pháp là người Việt Nam có thể sống tại quê cha đất tổ mà nhân phẩm của họ không bị chà đạp, người ra đi có thể trở về và mạng sống của họ không bị đe dọa. Mọi thay đổi trong chiều hướng khả quan đó có thể có hay không là do ở nơi anh em kháng chiến đã hơn 3 năm lặn lội ở bưng biền tranh đấu cho tương lai của dân tộc, cứu vãn nhân dân khỏi thảm họa diệt vong. Chánh quyền Cộng Sản đang đưa đẩy dân tộc đến bờ vực thẳm, làm lính đánh thuê cho ngoại bang, đi xâm lăng các quốc gia Lào và Campuchia, đe dọa an ninh của cả Ðông Nam Á.
 
Giải pháp cho vấn đề tị nạn và hòa bình tại Ðông Nam Á hiện nay tùy thuộc vào sự lớn mạnh của kháng chiến để ngăn chặn những ý đồ điên dại của những người cầm quyền ở Hà Nội. Cho nên lúc nào chúng tôi cũng dành sự ủng hộ của chúng tôi cho các anh em kháng chiến tại quốc nội, đó là để tiếp nối lại truyền thống của dân tộc từ thời lập quốc, lúc Lạc Long Quân và Âu Cơ chia ly có hứa hẹn khi hoạn nạn sẽ về giúp đỡ nhau. Trong hoàn cảnh thê thảm của đất nước, những đứa con ra đi như chúng ta sẽ giúp đỡ những đứa con đang tranh đấu tại quê nhà đem lại tự do cho nhân dân, giải phóng dân tộc khỏi chiến tranh diệt vong để sống chung hòa bình với các quốc gia láng giềng. Ðó là “Ðường Chúng Ta Ði”, “Ðường Chúng Ta Ði” cũng là đề tài của đêm văn nghệ Tết Kỷ Mùi nói lên truyền thống hào hùng của dân tộc. Nếu trong phần tổ chức có điều gì sơ xuất chúng tôi xin quý vị niệm tình tha thứ cho chúng tôi và Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris. Xin kính chúc quý vị một năm an khang và thịnh vượng.
 
Xin cám ơn quý vị.”

Trần Văn Bá đã tìm đường về. Trần Văn Bá về chiến khu phục quốc ngày 6 tháng Sáu, năm 1980, âm thầm, không một lời giã biệt. Anh trở thành một trong các cấp lãnh đạo của Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Anh từng chỉ huy nhiều chuyến xâm nhập người và vũ khí vào Việt Nam, trong khi ở hải ngoại, nhiều người không tin rằng, con người ốm yếu như anh có thể làm được công việc đội đá vá trời đó.

Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc đấu tranh chống cộng sản trên đất Pháp, từ những năm tháng trước thời điểm 1975 cho đến mãi những năm sau này và kể cả giai đoạn hiện nay. Những năm Tổng hội dưới sự lãnh đạo của Trần Văn Bá đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong ký ức của nhiều người, trong đó có anh Ðỗ Ðăng Lưu hiện đang sống ở Úc, “Phải thành thực mà nói là uy tín của Tổng Hội Sinh Viên Paris tăng lên rất nhiều là nhờ uy tín và khả năng cá nhân của anh Trần Văn Bá. Lý do là vì anh Bá xuất thân từ một đại gia đình rất có thế lực về chính trị ở miền Nam Việt Nam và nhờ anh có những quen biết ở cấp cao nhất trong chính quyền miền Nam lúc bấy giờ, thành ra anh Trần Văn Bá có cơ hội nắm được tình hình chính trị một cách rất là vững vàng và do đó có khả năng hướng dẫn dư luận về đường hướng chính trị vào thời buổi bấy giờ.”
Trong một lá thư từ chiến khu quốc nội gởi ra cho một chiến hữu tại Pháp, Trần Văn Bá cho biết rằng, đời sống trong khu chiến cơ cực, nhưng anh không sờn lòng và anh tin tưởng mãnh liệt là quê hương chắc chắn sẽ có ngày bừng sáng. Ðau đớn thay, chí lớn chưa thành thì Trần Văn Bá đã bị cộng sản bắt năm 1984 tại Minh Hải, sau đó bị kết án tử hình.

Trần Văn Bá bị cộng sản xử bắn ngày 8 Tháng Giêng năm 1985.

Trần Văn Bá đã vị quốc vong thân, nhưng anh lúc nào cũng là một tấm gương sáng và cái chết của người thanh niên đầy nhiệt huyết này là một mất mát lớn cho toàn thể dân tộc Việt Nam

Đinh Quang Anh Thái


Năm mới, bàn về chuyện sống tử tế của người Việt - Tác Giả Nguyễn Trọng Bình



Mới đây, báo Tuổi trẻ có tổ chức diễn đàn “Đâu rồi, chuyện tử tế?” để mọi người nhất là giới trẻ có… cơ hội nhìn lại mình. Phải thừa nhận đây là một ý tưởng hay và có ý nghĩa của những người làm báo nhằm góp phần làm lành mạnh hóa xã hội. Tuy vậy, qua theo dõi, người viết bài này thấy có chút băn khoăn.

Có thể thấy, bàn về chuyện sống tử tế hiện nay, hầu hết mọi người (dù có người không nói ra) đều có chung quan điểm: để làm một người tử tế trong xã hội Việt Nam bây giờ là điều không dễ dàng chút nào nhất là với những người trẻ (các em học sinh, sinh viên…) – những người mà nói thật lòng thì đa phần đều đang phải “sống bám” vào cha mẹ, vào xã hội cả về vật chất lẫn tinh thần. Không những vậy, nghiêm túc mà nói, thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay là thành phần chịu thiệt thòi nhất trong xã hội nếu nhìn ở phương diện quyền tự quyết định hướng đi riêng của cuộc đời họ trong mối quan hệ với những “người lớn”, những người đi trước.

Đặc biệt, trong hoàn cảnh nền giáo dục nước nhà vẫn đang loay hoay nhằm thoát khỏi sự trì trệ, lạc hậu; còn xã hội thì đang rơi vào sự khủng hoảng các thang bậc giá trị (như nhiều người từ lâu ca thán là “xuống cấp về văn hóa và suy đồi về đạo đức”) thì việc đòi hỏi người trẻ phải sống tử tế có khi nào là “chuyện không của riêng ai nhưng cũng không phải chuyện của mình”?

Bởi lẽ, để xã hội lâm vào tình trạng “xuống cấp về văn hóa và suy đồi về đạo đức” như hiện nay, lỗi này trước hết là do những “người lớn” gây nên. Nhưng oái oăm thay, thế hệ trẻ lại là chính là những nạn nhân phải hứng chịu vì họ không có quyền lựa chọn hay tránh né. Vậy mà trong khi rất nhiều “người lớn” còn chưa biết sống tử tế hay những chính sách về giáo dục từ những người có trách nhiệm dành cho thế hệ trẻ còn chưa tử tế thì thử hỏi giới trẻ biết dựa vào đâu, tin vào ai để mà xây dựng nếp sống tử tế cho riêng họ?

Đây có thể xem là nguyên nhân chính để những bạn trẻ khi tham gia diễn đàn trên báo Tuổi trẻ thời gian quan đã liên tưởng đến câu nói nổi tiếng của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước 1945: “Ai cho tao lương thiện?” để mà đau đớn, ngậm ngùi: “Ai cho tôi tử tế?” [1].

Những “người lớn”, những người đang nắm quyền điều hành xã hội và đất nước hiện nay nghĩ gì trước câu hỏi đắng lòng này của thế hệ con cháu mình? Có ai không, hãy thẳng thắn trả lời và đối thoại với thế hệ trẻ Việt Nam về câu hỏi“ai cho chúng ta sự tử tế trong một môi trường sống như thế này? [2]

Kêu gọi, định hướng, chỉ dẫn người trẻ sống cho tử tế là điều rất nên làm. Tuy nhiên, có cảm giác nhiều người đang dồn hết chuyện này về cho giới trẻ, từ những chuyện tử tế mang tầm vi mô như: “không được khạc nhổ hay vứt rác bừa bãi để giữ gìn vệ sinh nơi công cộng…” cho đến những chuyện tử tế mang tầm vĩ mô như:“trách nhiệm của người trẻ là đưa đất nước đi lên”… [3].

Người trẻ ở Việt Nam do truyền thống văn hóa và thậm chí do những định kiến hẹp hòi, phần lớn vẫn còn rất “ngây thơ” trước những suy nghĩ và toan tính của “người lớn” về vô số những vấn đề trong cuộc sống; đa phần họ cũng rất ít được can dự vào những chính sách lớn lao của đất nước mà chủ yếu chỉ biết nghe và làm theo như một cái máy mà thôi. Thế nhưng, khi xã hội và đất nước xảy ra những chuyện không hay thì không hiểu sao chỉ thấy những phong trào rầm rộ được phát động dành riêng cho lớp trẻ về lối sống tử tế mà ít thấy những phong trào như vậy dành cho những “người lớn”?

Hãy nhìn thẳng vào chuyện tham nhũng mà nhiều coi là một “quốc nạn” ở xã hội hiện nay. Thử hỏi đối tượng tham nhũng là ai? Chắc chắn không phải những người trẻ. Và tham nhũng có phải là chuyện tử tế không? Ấy vậy mà chẳng thấy có phong trào nào, tỷ như: “Nói không với tham nhũng” dành cho những “người lớn” để giúp họ sống cho đàng hoàng và tử tế hơn?

Muốn xã hội lành mạnh thì những “người lớn” không thể đứng ngoài cuộc hay không thể tự loại mình ra khỏi danh sách những đối tượng lẽ ra, phải sống tử tế trước tiên. Bởi như đã nói, đúng ra những “người lớn” phải chịu trách nhiệm chính về chuyện này chứ không phải giới trẻ. Cho nên, nếu những “người lớn” dồn hết chuyện này về phía những người trẻ, thì nếu không phải là một bất công cũng là vô trách nhiệm và hoàn toàn không tử tế một chút nào của những người đi trước.

-----------------------------------------

Chú thích nguồn:
[1], [2]: “Ai cho tôi tử tế?” – Báo Tuổi trẻ số ra ngày 12/12/2014
[3]: “Trách nhiệm của người trẻ: đưa đất nước đi lên” – Báo Tuổi trẻ số ra ngày 27/12/2014

Nghệ Thuật Bonsai Nhật Bản