Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
Em mở lòng xem lại vết thương
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
Hay sương thành lệ tra vào mắt
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.
Đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng. Đã bao lần tháng Tư trôi qua, bao nhiêu nước đã qua cầu, nhưng vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt.
Thời ấy, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã chớm bạc, "cùng một lứa, bên trời lận đận", sau cơn Đại hồng thủy tháng tư năm 1975, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời: "... thằng thì đang còng lưng trong các shop may tại Santa Ana, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, có thằng đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài Gòn..." (trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bần thần ngơ ngác như kẻ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình. Chúng tôi đã làm gì cho Tổ Quốc?
Trước năm 1975, tôi là người lính trong Quân đội Miền Nam, với cấp bậc Sĩ quan thấp nhất là Thiếu úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng. Ngoài số lương đủ sống mà tôi được lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bổng lộc nào từ phía "triều đình". Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình. Cho nên tôi không hề có mơ tưởng nào về một hào quang của ngày tháng cũ.
Khi nhìn lại mình, tôi viết như thắp một nén hương tưởng niệm, những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay, tại hải ngoại này.
*
Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thủa ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên từ tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng cùa Nhà văn Phan Nhật Nam. Mùa hè đỏ lửa năm 72, là năm quân đội của hai miền Nam Bắc dốc sức đánh một trận chiến sanh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong.
Niên khóa năm 71-72, tôi là sinh viên Đại học Văn Khoa Sai Gòn, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành. Tin tức chiến sự từ các mặt trận dồn dập gửi về, lúc đó bạn bè lính tráng của tôi, lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về. Sau này ngẫm nghĩ lại, tôi thấy Miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa.
Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh Tổng Động Viên, tất cả nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Giã từ Văn Khoa với đại giảng đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng, của Giáo sư Nguyễn Thế Anh... giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn, tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ, nên đã đưa một số sinh viên ra thụ huấn tại Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của tuổi trẻ miền Nam đã tập trung vào hai quân trường này. Miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.
Vào quân trường, khóa 4/72 toàn là sinh viên các trường Đại học tụ về, chúng tôi cùng làng xàng tuồi nhau nên đùa vui như Tết. Tuổi trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự, thành một người lính thật thụ là điều không đơn giản. Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng nên một cơ thể gan thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp.
Trong 5 tuần lễ đầu tiên bước vào trường, gọi là giai đoạn huấn nhục, đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi phải tuân phục sự chỉ huy điều động của các Huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ loại hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy, không được đi... các Huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm đến chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần Huấn nhục, ai vượt qua được sẽ tham dự Lễ gắn Alpha, chính thức trở thành Sinh viên Sĩ quan.
Ngày quì xuống Vũ đình trường, để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập được một kỳ công, đã tự chiến thắng mình để trở thành một người lính đúng nghĩa, không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà xập, đồi Bác sĩ Tín... cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài Đại đội Vượt sông, Đại đội Tùng thiết, Đại đội Di hành dã trại....
Cuối cùng, điều mà chúng tôi monh đợi từ lâu, đó là ngày Lễ ra Trường. Tất cả trong quân phục đại lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường. Rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên sĩ quan chỉ huy buổi lễ:" Quì xuống các Sinh viên sĩ quan" Chúng tôi đọc lời tuyên thệ: Danh dự, Tổ quốc, Trách nhiệm. Sau đó được gắn lon Chuẩn úy lên cầu vai. Tiếng thét lồng lộng lại cất lên:
"Đứng lên các Tân Sĩ Quan". Trong số chúng tôi, có người ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã được đánh đổi bởi biết bao mồ hôi gian khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi tụ họp lên Hội trường để chọn đơn vị. Tới phiên tôi được xướng danh lên bảng chọn, có một chuyện làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư đoàn 7 cho gần Sài Gòn, bỗng cái ông Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng, bèn đưa ra lời bàn:" Chuẩn úy nên chọn về Sư đoàn 9 vì có vùng trách nhiệm nhẹ hơn, Sư đoàn 7 trách nhiệm vùng Cai Lậy- Cái Bè rất nặng nề". Oái oăm thay, ngày lội hành quân của tôi lại là vùng Cái Bè, vì đơn vị tôi tăng phái cho Sư đoàn 7.
Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 9 tại Vĩnh Long, được phân bổ về Trung đoàn 14, lúc đó Trung đoàn đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài Gòn, qua Ngả Ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy, rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, nơi đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe đến Hậu Mỹ là đủ ớn xương sống. Không hiểu sao nơi giửa Đồng Tháp Mười lại có một nơi dân cư sinh sống bắng nghề nông rất trù phú.
Đám Tân Chuẩn úy chúng tôi, sau khi trình diện, được giử lại Ban Chỉ Huy vài hôm để tìm hiểu về cách làm việc của các phòng ban nơi này. Sau đó Ban Quân số phân chia chúng tôi về các đơn vị. Vị Sĩ quan phụ trách hỏi có Chuẩn úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận, nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng, tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này, mà trong lòng không có một chút oán thù nào với phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.
Một Trung đoàn Bộ binh có 3 Tiểu đoàn và một Đại đội Trinh sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về các Tiểu đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn mấy khi gặp nhau nữa. ĐĐTS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại đội trưởng, lúc đó đơn vị đóng ngoài căn cứ của Ban Chỉ huy Trung đoàn. Trung úy ĐĐ Trưởng có biệt danh là Đại bàng, dáng người cao to trông rất dử dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giọng nói gầm gừ trong cổ họng, tất cả toát lên một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện ( trong đó có tôi nữa). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân kỷ:" Chuẩn Úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Trung Úy". Ông nhướng mắt lên nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng ( mãi sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi phán cho tôi một câu: "Anh về làm Trung đội phó viễn thám!". Trời đất! tôi thầm nghĩ cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhỉ? Lúc đó, tôi chớ hề biết rằng làm Trung đội phó là còn may mắn, các sĩ quan về sau có khi còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở.
Đại đội TS lúc đó có khoảng trên trăm người lính, được chia làm hai Trung đội Trinh sát và một Trung đội Viễn thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất "ngầu", uống rượu như điên, nói năng bạt mạng. Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn. Phần lớn họ thuộc gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều, những người lính này đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật của quân đội. Sau một thời gian sống gần gủi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phát, coi trọng nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả thân, và họ không dể sợ như tôi nghĩ lúc ban đầu.
Vài hôm sau, gặp bữa ĐĐ tề tựu đông đủ, Đại bàng đưa tôi ra giới thiệu trước hàng quân, rồi ông bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi! tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp vía như thế này bao giờ đâu. Cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng. Bây giờ nghĩ lại, tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắt lưỡi bực mình của Đại bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi: "Chuẩn úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy?" Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, mỗi khi xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đứng nghiêm, trả lời: "Dạ tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức". Ông ta bèn xán cho tôi một câu nhớ đời: "Vậy mà tôi tưởng Chuẩn úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân!" Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là sinh viên sĩ quan trong trường Bộ binh, chúng tôi thường coi là điều sỉ nhục khi bị cấp trên mắng là Nữ quân nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi lặng lẽ ứa nước mắt.
Tôi về làm Trung đội phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72, anh ta là người trí thức có bằng Cử nhân Chính trị Kinh doanh. Thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh thương tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài, dở khóc dở cười, không sao quên được.
Thường thường chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ. Thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông dội lên người. Tắm một hồi, tôi cảm thấy có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, rồi còn xầm xì bàn tán gì đó. Bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có anh lính lên tiếng: "Sao Chuẩn úy không xuống tắm với tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! sao nước da của Chuẩn úy trắng nõn như da con gái vậy"
Tôi ngượng điếng người, cảm thấy máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, cái ông Thượng sĩ già đứng gần đó còn đớp thêm một câu:" Ý cha! cái bàn chân của Chuẩn úy đẹp như bàn chân của các tiểu thơ, bàn chân này chắc sẽ có số sướng lắm đây!" Thật là khổ cho cái thân học trò, hết là Nữ quân nhân, bây giờ lại giống con gái, thiệt chán.
Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy, Hậu Mỹ là nơi tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị và cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa xạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi, là bắt đầu nai nịt lên đường, để tham dự cuộc hành quân lục soát hàng ngày. Bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đầu gối, rồi khi vượt qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế chúng tôi ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo chúng tôi nhuộm phèn vàng chạch, trông rất kỳ quái.
Hậu Mỹ là vùng lúa xạ nên rất ít bờ ruộng, khi đã đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch cho tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được. Đất ruộng người dân cày xới lên, thành từng tảng đất to như trái dừa lớn, ngổn ngang kín mít mặt ruộng và nước thì lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên khi rút bàn chân lên thật khó nhọc. Mặt trời rọi ánh nắng gay gắt khiến mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có người lính đệ tử mang vác phụ. Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn, phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối, xẽng, dao... người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không nghe một lời than van nào, họ cắn răng lại mà cam chịu, bởi vì có than van cũng chẳng ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo vắt mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật ra đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết. Lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn là sống, đời lính sao mà khổ quá!
Theo Đặc san Cư An Tư Nguy, phát hành tại San Diego, thì Trường Bộ Binh Thủ Đức đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn Sĩ quan đã tử trận và không dưới 10 ngàn người đã trở thành Phế binh.
Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ quan mới ra trường và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, Sĩ quan Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính. Khi đóng quân phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung đội trưởng Trinh sát không có bạn nữa mà chỉ có phía địch quân. Cho nên lính dễ chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như nhau, súng đạn thì vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế.
Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh, trong khi Chuẩn úy Thắng chuyện trò với Đại bàng qua máy truyền tin. Sau đó im lìm không nghe thấy lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính truyền tin nói với Ch/U Thắng: "Đại bàng kêu Ch/U lên trình diện gấp." Anh Thắng bỏ đi một hồi, thì lính truyền tin lại bảo tôi: "Đại bàng muốn gặp Ch/U Châu"
Tôi mới vừa cầm ống nghe áp vào tay, thì nghe chửi xối xả, giọng ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra là do Ch/U Thắng quá sợ nên không dám xua quân tấn công. Đại bàng gầm lên bảo tôi: "Nè! Ch/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không? Tôi nghe lịnh mà sợ muốn "té đái trong quần", run lập cà lập cập rồi trả lời tuân lịnh. Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi cầm khẩu súng tiểu liên M16, miệng chỉ kịp kêu lớn: "Tất cả theo tôi". Lúc đó tôi "quíu" quá, nên không còn nhớ đến bài bản chiến thuật nào từng học ở quân trườn.
Tôi xông lên, vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa!) Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo. Phía bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, chắc tưởng sau tôi là đại quân ghê gớm, bèn lập tức tháo lui. Trong lúc vội vàng họ còn bỏ lại mấy cây súng AK nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút. Ai cũng tưởng tôi gan dạ chứ đâu có biết rằng tôi làm được như thế vì quá "rét" ông xếp dữ dằn.
Sau đó Đại bàng kéo quân lên, ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lại lập chiến công "khùng điên ba trợn" như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy trung đội lại cho Ch/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.
Sau “chiến công đầu tiên”, tôi được điều qua các Trung đội khác, xử lý công việc tạm thời cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương. Một điều may mắn, (hay Trời đãi kẻ khù khờ!) khi nắm quyền tạm thời đó, với những trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Đại bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ aí ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi.
Ông Đại bàng này sau đó thuyên chuyển qua đơn vị khác. Đại bàng mới đến thay thế cũng mang cấp bậc Trung Úy, nhưng dáng dấp thư sinh, ăn nói hiền lành hơn ông trước. Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, ông cũ giới thiệu các sĩ quan trong đơn vị cho ông mới. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một Trung đội phó, rồi đưa ra nhận xét làm sửng sốt mọi người: "... đây là một sĩ quan xuất sắc, một tay chơi tới bến của đơn vị..." Hai người sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Với Đại bàng mới, ông ta lấy làm lạ vì ông cứ ngỡ sĩ quan xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng kia, sao lại là cái tay Trung đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Có lẽ vì cái nhận xét này, chỉ một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại bàng mới cất nhắc lên làm Trung đội trưởng thật thụ.
Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải tận lực lo công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp chỉ huy, chính điều đó đã đẩy trung đội tôi vào chốn hung hiểm. Khi Đại đội tiến quân vào nơi tử địa, trung đội tôi được lịnh đi đầu, khi rút quân từ nơi đó ra, chúng tôi bao chót. Khi tấn công vào mục tiêu, chúng tôi được giao nơi khó gặm nhất, và khi phòng thủ thì chúng tôi nằm nơi dễ chết nhất.
Người ta thường nói: "Nhất tướng công thành, vạn cốt khô", tôi không phải là tướng, chỉ là một sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều và nhanh chóng đến nỗi tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy của Đại bàng dành cho tôi mà trung đội tôi phải chịu những tai ương này.
Ông ta rất quí mến tôi, chưa hề quát mắng tôi một tiếng nặng lời nào, có món ăn ngon, ông sai đệ tử đến mời tôi dùng cơm với ông, có huy chương nào quí giá ông đều ưu tiên dành cho tôi. Ông qúi tôi như vậy vì ông biết rằng, nếu cứ xử dụng tôi như thế thì trước sau gì tôi cũng chết. Làm sao tôi sống thọ, khi đi hết chiến trường này đến chiến trường khác, mà lại toàn là những nơi "đầu sóng ngọn gió". Vậy mà điều là lùng là tôi vẫn sống.
Khi về đơn vị Trinh sát này, tôi có được một điều may mắn, là được phục vụ trong một đơn vị lưu động khắp miền Tây. Khởi đầu của tôi là tại Cái Bè- Cai Lậy với các địa danh nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo, Láng Biển...
Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, rẽ trái đi thêm một đoạn xa nữa, tới một nơi tận cùng gọi là Bình Thạnh Thôn, còn có tên là Long Khốt, đây là một trong những chiến trường ác liệt nhất của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Từ nơi này, chúng tôi ngồi xe Thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng ngự, chính cái lúc băng ngang này đây, tôi mới biết rõ về Đồng Tháp Mười, đây là một vùng đầm lầy kinh hãi nhất. Đi suốt một ngày với Thiết giáp, tôi không hề thấy có một loài cây nào sống nổi, ngoại trừ loại cỏ bàng (dùng để dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước phèn màu vàng sậm. Tóm lại không có một sinh vật nào sống nổi huống chi là con người, vùng đầm lầy chạy dài ngút mắt đến chân trời, khung cảnh im lìm ghê rợn.
Rồi có khi, chúng tôi rời Mỹ Tho xuôi Nam, băng qua sông Tiền bởi Phà Mỹ Thuận, rồi băng qua sông Hậu với Phà Cần Thơ, xuôi theo lộ cái tới Cái Răng- Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền - Cầu Nhím. Nơi đây tôi ngạc nhiên với vùng giàu có tột bực này. Ở đây người dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy lền trên mặt sông, để đến điểm tập trung giao hàng chở đi các nơi khác. Nhà cửa của họ ở miệt vườn mà trông rất bề thế như biệt thự ở thành phố chứ không phải thường.
Rồi chúng tôi đến Phong Phú- Ô Môn, tiến sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai- Cờ Đỏ, sự trù phú không sao tả xiết. Có khi chúng tôi ngồi tắt ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, hai bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ theo kiểu miệt vườn, không hề có cảnh nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng bề thế có xe máy cày đậu bên hông. Tuy nhiên càng vào sâu hơn nữa, chúng tôi gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm- Thát Lác, vì giặc giã dân chúng tản cư đi hết, nhà cửa bỏ hoang phế trông rất âm u rợn người.
Trong tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm,vừa thích thú vừa buồn rầu đau đớn. Mùa Khô năm 1974, Đại đội chúng tôi được trực thăng bốc từ phi trường Cao Lãnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi nhảy líp đầu, khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về vùng đất xa lạ này. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ ruộng nào cả, trên cánh đồng có nhiều gò đất nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi trung đội rời khỏi trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm chiếm một gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho dừng quân lại, dàn hàng ngang nằm yểm trợ cho một toán khinh binh vào lục soát.
Sau một hồi, thấy không có gì lạ, khinh binh khoát tay cho trung đội tiến vào. Khi vào tới nơi, tôi tung các toán ra canh gác chung quanh gò. Trên gò có thật nhiều cây xanh che bóng mát và có vài đìa cá, lính tráng người nào không mắc phiên gác thì ùa xuống tát đìa. Khi đìa cạn, cá lộ ra bò lúc nhúc đặc lền như bánh canh.
Một lát sau cả Đại đội theo trực thăng đổ xuống, kéo vào gò trú ẩn vị trí cũng vừa đủ. Đêm tới, chờ cho trời tối hẳn, Đại bàng ra lịnh kéo quân đi đến một vị trí khác để đóng quân, vì vị trí ban ngày đã bị lộ. Chúng tôi kéo qua một cái gò khác, đêm đó chẳng ai ngủ được, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc lùng sục khắp nơi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ. Tờ mờ sáng hôm sau, có một đàn xe bò đông đảo khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chỗ đóng quân, lính tráng hỏi họ đi đâu, họ nói kéo nhau đi tát đìa, trời đất! Tát đìa mà kéo một đàn xe bò như thế này ư?. Không biết họ đi đến đâu, chiều đến họ kéo về, xe nào cũng đầy ắp cá chứa lủ khủ trong thùng chậu lớn. Sau đó họ đi đến bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá về Hồng ngự.
Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo hai bên bờ rạch có tên là Rạch Cái Cái. Vì người dân sống trong vùng nước nổi nên nhà cửa họ cất cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn. Nơi đây đúng là cùng trời cuối đất mà tiếng bình dân gọi là Hóc bà tó. Đây là vùng tranh chấp giữa hai bên nên chiến trận nổ ra liên miên, người dân họ sống rất là tạm bợ, cả xã có vài ngàn người, vậy mà số người biết đọc biết viết chỉ đếm trên đầu ngón tay. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng tạp hóa hay ghe hàng bông (rau quả) được chở tới từ Hồng ngự. Tôi hỏi họ sao cánh đồng này kỳ lạ, phẳng lì như sa mạc, tôi chưa từng thấy bao giờ. Họ nói, tới mùa lũ tràn về, không có bờ ruộng nào chịu nổi trước sức nước, nên họ để mặc như thế, ruộng của ai người đó biết, họ đã quen từ nhiều đời như thế rồi.
Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào bất cứ nhà ai, chủ nhà nào cũng rất hiếu khách và xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượu đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn dấm tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi, ăn với khoai lang hay bắp luộc. Lúc đầu thấy mắm sống tôi sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã "hãi" nói chi tới ăn. Đám lính chúng tôi đang lội sình "mệt nghỉ", nay được đưa về nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là "đã đời", chúng tôi hành quân mà như đi picnic. Nhưng trong lòng tôi linh cảm có cái gì đó không ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được tung vào nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi chơi như thế này.
Sau một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường một Chi đoàn Thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này, vùng hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hàng ngày chúng tôi hành quân tùng thiết với thiết giáp, đi lục soát nơi này nơi khác, vẫn bình yên không hề có tiếng súng.
Rồi cuối cùng cái ngày giông bão đó đã đến. Hôm đó bình thường như mọi ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân, đi đến các điểm đã chỉ định sẵn trên bản đồ. Tới một điểm bất chợt, đoàn xe dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ vì sình lầy nên không tiến sâu được. Lính Trinh sat chúng tôi được lịnh xuống xe tiến vào bờ vườn. Trung đội tôi đi cánh trái của đội hình Đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng:
"Tất cả tản thưa ra, đi túm tụm lại như vầy dễ ăn đạn lắm" Không ngờ lời nói của tôi "linh như miễu", đạn phát nổ vang trời dậy đất. Tôi bị trúng đạn, bật người ngã xuống đất, máu không biết ở đâu chảy xuống mặt thành dòng. Tôi ra lịnh bắn lại xối xả, nếu không phía bên kia thừa thắng xông lên thì thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im bặt, lúc đó tôi mới có thời gian để xem xét, coi mình bị thương ở đâu.
Sau đó tôi giật mình, hết sức king ngạc vì tôi bị bắn trúng một lượt hai viên đạn AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng colt tôi nhét trước bụng, viên đạn bể ra văng miễng tứ tán, ghim lên mặt khiến máu chảy thành dòng là vì thế, phần còn lại của viên đạn chui tọt vào đùi máu ra chút ít không nghiêm trọng. Viên đạn thứ hai mới ghê, nó ghim vào cái bóp tôi để trên ngực áo trái phía trước trái tim, viên đạn đã quậy nát cái bóp, trong đó tôi để rất nhiều tiền vì mới lãnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn nằm yên trong đó, có lẽ tầm đạn bắn quá gần khiến viên đạn không đủ sức xuyên phá để đâm vào trái tim của tôi. Lúc đó tôi sợ lắm và cũng nghĩ đến một quyền lực thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi. Chứ trên đời này đâu có ai bị bắn trúng một lúc hai viên đạn mà còn sống sót như tôi.
Kế đó, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử của tôi: "Thiếu úy ơi! Cứu em!" Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra nãy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết, bởi vì cỏ cao che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước tôi khoảng dăm ba thước. Thông thường, mỗi sĩ quan Trung đội trưởng có hai người lính đệ tử, hai anh chàng này có nhiệm vụ lo mang vác đồ đạc và lo chỗ ăn chỗ ngủ cho ông thầy. Những người đệ tử của tôi thường đồi xử với tôi rất chí tình, họ sẵn sàng sống chết với tôi mà không hề so đo tính toán. Khi tôi dẫn trung đội xung trận, hai người lính này theo sát để bảo vệ tôi.
Hôm ấy, một trong hai đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó mãi cho đến tận bây giờ. Vậy mà 39 năm trôi qua tôi chớ có một lần nào về đứng trước mộ anh, để đốt một nén nhanh nói lên lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ Nguyễn văn Đồng, một cái tên bình thường vô danh, nằm lẩn khuất đâu đó trong hàng triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tức tưởi này.
Sau khi bị thương, tôi giao trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn úy Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài cho y tá băng bó vết thương, rồi leo lên xe Thiết giáp ngồi nghỉ và quan sát trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn úy Tường dàn đội hình trung đội hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: "Đừng làm thế, Tường ơi!" Sau đó trung đội tôi bị bắn tan tác, Chuẩn úy Tường trúng đạn vô bụng chết tại mặt trận, mắt vẫn mở trừng trừng, có lẽ anh ta không biết sao mình lại chết như vầy. Trung đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. " Tường ơi! Vĩnh biệt!".
Không biết sao Đại đội tôi đóng quân bên bờ Rạch Cái Cái trong một thời gian rất dài. Cho tới ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không còn cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước dâng cao mỗi ngày cả gang tay, đến lúc đó mới thấy lúa xạ là loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì lúa cũng dài ra 5-6 mét, tôi chưa thấy nơi nào lại có cây lúa kỳ lạ như vậy.
Rồi đến lượt cá Linh kéo về, cá nhiều đến nổi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nổi lền cả một khúc sông, và thêm một điều kỳ lạ nữa là người dân ở đây họ không ăn cá Linh. Sao lạ vậy? Họ nói, họ thấy cá Linh cả đời nên đâm ra ngán tới cổ.
Ô! nước cứ dâng lên mãi, khiến chúng tôi kiếm chỗ đóng quân khá vất vả, chúng tôi rút lên gò cao, thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo trong mùng rất ghê khiếp. Cả đơn vị phải chẻ nhỏ ra thành từng toán. Có hôm, toán của Thầy trò chúng tôi kéo lên một cái gò còn khô ráo, đêm đó như thường lệ tôi nằm ngủ dưới một mái lều.
Tới nửa đêm tôi đang ngủ mê mệt, thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình, ở chốn trận tiền ai ngủ cũng phải thật nhạy thức. Tôi cũng vậy, tôi tưởng đâu lính gác báo động nên vội vàng ngồi dậy, tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng vằng vặc, một em bé gái chừng 12-13 tuổi đang đứng nhìn tôi và mỉm cười thật tươi tắn. Tôi trố mắt nhìn ngẩn ngơ một hồi, rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá vội nằm xuống kéo mền trùm kín đầu, nhưng không ngủ được nữa.
Sáng ra, tôi thấy chỗ tôi ngủ đêm qua nằm kề bên một cái trang thờ xiêu vẹo mục nát. Tôi bèn rảo bước đi vào làng hỏi thăm về cái trang thờ trên gò nhỏ này. Người dân cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày em chèo xuồng ra đồng nhổ bông súng đi bán dạo, rồi một hôm em ra đồng như thường lệ, một lát sau thì súng đạn hai bên nổ rang, em bị đạn lạc chết trên gò. Em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm em hiện về khóc lóc thảm thiết. Dân làng thấy vậy bèn làm cho em một cái trang thờ để nhang khói cho em. Câu chuyện của em thật tội nghiệp.
Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm viếng những gia đình có người thân chết trận. Vậy mà có lần tôi phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ.
Chuẩn úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi gần một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt nét con nít. Mặt Hà đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích ăn kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống một ly, vừa uống vừa chắt lưỡi hít hà như uống thuốc độc. Điều đặc biệt nhất của Hà là anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe tiếng đại bác anh ta nhắm chặt mắt lại, bịt kín lỗ tai và mặt mày tái mét. Lúc đầu anh ta về làm phó cho tôi, làm giọng "chảnh" tôi hỏi anh ta một cách xách mé: "Sao ông nhát hít như vầy mà sao lại xin về Trinh sát?" Anh ta bèn phân trần, đâu có xin xỏ gì, Ban Quân số thấy không có ai tình nguyện về TS nên bèn chỉ định bừa, ai dè trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, vậy mà còn phải ngó chừng cho anh ta nữa, vì Hà có biết cái gì đâu, thiệt khổ.
Càng về sau, các sĩ quan càng rơi rụng dần, Chuẩn úy Hà cà ngáo cũng được đưa lên làm Trung đội trưởng. Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Hôm đó cả Đại đội được lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội của Hà và một Trung đội nữa vỗ vào mặt chính, còn Trung đội tôi thọc vào cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra một trái B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra trúng vào Hà, tội nghiệp quá Hà chết nát bét không toàn thây.
Lúc Hà còn sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà ở Sài gòn, để nhờ mang quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với gia đình này. Hà mất chừng một tháng thì tôi xin được cái phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia buồn với gia đình. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy tay tôi rồi hỏi dồn dập: "Sao cái hôm em Hà nó chết mà sao cháu không về đưa đám tang cho em?" Tôi lúng túng trả lời:" Thưa lúc đó chúng cháu đánh nhau chí chết ngoài mặt trận, cho nên cháu không thể bỏ đơn vị mà về được!".
Thế là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc ngằn ngặt, nước mắt tuôn ra xối xả làm ướt đầm cả ngực áo. Ông bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết. Nghe ông bà kêu khóc thảm thiết một hồi, tôi không chịu đựng nỗi nữa và tôi cũng không nói được một lời chia buồn nào, bởi vì lời nói nào cho đủ trước một mất mát quá lớn lao này.
Sau cùng, tôi lảo đảo đứng dậy từ giã hai ông bà để ra về. Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu một mình. Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi khá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt.
Cuối tháng 2 năm 1975, tôi bị thương một lần nữa cũng tại Mộc Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh xá Sư Đoàn tại Vĩnh Long. Tại bịnh xá tôi theo dõi tình hình chiến sự trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuột tôi linh cảm điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-1975, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy.
Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4 nhìn về hướng Cần Thơ thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi chớ hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên cho một hành trình bi thảm khác có tên là "Mạt Lộ".
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
Em mở lòng xem lại vết thương
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
Hay sương thành lệ tra vào mắt
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.
Đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng. Đã bao lần tháng Tư trôi qua, bao nhiêu nước đã qua cầu, nhưng vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt.
Thời ấy, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã chớm bạc, "cùng một lứa, bên trời lận đận", sau cơn Đại hồng thủy tháng tư năm 1975, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời: "... thằng thì đang còng lưng trong các shop may tại Santa Ana, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, có thằng đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài Gòn..." (trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bần thần ngơ ngác như kẻ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình. Chúng tôi đã làm gì cho Tổ Quốc?
Trước năm 1975, tôi là người lính trong Quân đội Miền Nam, với cấp bậc Sĩ quan thấp nhất là Thiếu úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng. Ngoài số lương đủ sống mà tôi được lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bổng lộc nào từ phía "triều đình". Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình. Cho nên tôi không hề có mơ tưởng nào về một hào quang của ngày tháng cũ.
Khi nhìn lại mình, tôi viết như thắp một nén hương tưởng niệm, những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay, tại hải ngoại này.
*
Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thủa ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên từ tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng cùa Nhà văn Phan Nhật Nam. Mùa hè đỏ lửa năm 72, là năm quân đội của hai miền Nam Bắc dốc sức đánh một trận chiến sanh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong.
Niên khóa năm 71-72, tôi là sinh viên Đại học Văn Khoa Sai Gòn, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành. Tin tức chiến sự từ các mặt trận dồn dập gửi về, lúc đó bạn bè lính tráng của tôi, lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về. Sau này ngẫm nghĩ lại, tôi thấy Miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa.
Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh Tổng Động Viên, tất cả nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Giã từ Văn Khoa với đại giảng đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng, của Giáo sư Nguyễn Thế Anh... giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn, tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ, nên đã đưa một số sinh viên ra thụ huấn tại Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của tuổi trẻ miền Nam đã tập trung vào hai quân trường này. Miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.
Vào quân trường, khóa 4/72 toàn là sinh viên các trường Đại học tụ về, chúng tôi cùng làng xàng tuồi nhau nên đùa vui như Tết. Tuổi trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự, thành một người lính thật thụ là điều không đơn giản. Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng nên một cơ thể gan thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp.
Trong 5 tuần lễ đầu tiên bước vào trường, gọi là giai đoạn huấn nhục, đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi phải tuân phục sự chỉ huy điều động của các Huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ loại hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy, không được đi... các Huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm đến chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần Huấn nhục, ai vượt qua được sẽ tham dự Lễ gắn Alpha, chính thức trở thành Sinh viên Sĩ quan.
Ngày quì xuống Vũ đình trường, để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập được một kỳ công, đã tự chiến thắng mình để trở thành một người lính đúng nghĩa, không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà xập, đồi Bác sĩ Tín... cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài Đại đội Vượt sông, Đại đội Tùng thiết, Đại đội Di hành dã trại....
Cuối cùng, điều mà chúng tôi monh đợi từ lâu, đó là ngày Lễ ra Trường. Tất cả trong quân phục đại lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường. Rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên sĩ quan chỉ huy buổi lễ:" Quì xuống các Sinh viên sĩ quan" Chúng tôi đọc lời tuyên thệ: Danh dự, Tổ quốc, Trách nhiệm. Sau đó được gắn lon Chuẩn úy lên cầu vai. Tiếng thét lồng lộng lại cất lên:
"Đứng lên các Tân Sĩ Quan". Trong số chúng tôi, có người ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã được đánh đổi bởi biết bao mồ hôi gian khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi tụ họp lên Hội trường để chọn đơn vị. Tới phiên tôi được xướng danh lên bảng chọn, có một chuyện làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư đoàn 7 cho gần Sài Gòn, bỗng cái ông Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng, bèn đưa ra lời bàn:" Chuẩn úy nên chọn về Sư đoàn 9 vì có vùng trách nhiệm nhẹ hơn, Sư đoàn 7 trách nhiệm vùng Cai Lậy- Cái Bè rất nặng nề". Oái oăm thay, ngày lội hành quân của tôi lại là vùng Cái Bè, vì đơn vị tôi tăng phái cho Sư đoàn 7.
Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 9 tại Vĩnh Long, được phân bổ về Trung đoàn 14, lúc đó Trung đoàn đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài Gòn, qua Ngả Ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy, rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, nơi đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe đến Hậu Mỹ là đủ ớn xương sống. Không hiểu sao nơi giửa Đồng Tháp Mười lại có một nơi dân cư sinh sống bắng nghề nông rất trù phú.
Đám Tân Chuẩn úy chúng tôi, sau khi trình diện, được giử lại Ban Chỉ Huy vài hôm để tìm hiểu về cách làm việc của các phòng ban nơi này. Sau đó Ban Quân số phân chia chúng tôi về các đơn vị. Vị Sĩ quan phụ trách hỏi có Chuẩn úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận, nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng, tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này, mà trong lòng không có một chút oán thù nào với phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.
Một Trung đoàn Bộ binh có 3 Tiểu đoàn và một Đại đội Trinh sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về các Tiểu đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn mấy khi gặp nhau nữa. ĐĐTS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại đội trưởng, lúc đó đơn vị đóng ngoài căn cứ của Ban Chỉ huy Trung đoàn. Trung úy ĐĐ Trưởng có biệt danh là Đại bàng, dáng người cao to trông rất dử dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giọng nói gầm gừ trong cổ họng, tất cả toát lên một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện ( trong đó có tôi nữa). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân kỷ:" Chuẩn Úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Trung Úy". Ông nhướng mắt lên nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng ( mãi sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi phán cho tôi một câu: "Anh về làm Trung đội phó viễn thám!". Trời đất! tôi thầm nghĩ cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhỉ? Lúc đó, tôi chớ hề biết rằng làm Trung đội phó là còn may mắn, các sĩ quan về sau có khi còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở.
Đại đội TS lúc đó có khoảng trên trăm người lính, được chia làm hai Trung đội Trinh sát và một Trung đội Viễn thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất "ngầu", uống rượu như điên, nói năng bạt mạng. Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn. Phần lớn họ thuộc gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều, những người lính này đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật của quân đội. Sau một thời gian sống gần gủi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phát, coi trọng nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả thân, và họ không dể sợ như tôi nghĩ lúc ban đầu.
Vài hôm sau, gặp bữa ĐĐ tề tựu đông đủ, Đại bàng đưa tôi ra giới thiệu trước hàng quân, rồi ông bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi! tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp vía như thế này bao giờ đâu. Cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng. Bây giờ nghĩ lại, tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắt lưỡi bực mình của Đại bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi: "Chuẩn úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy?" Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, mỗi khi xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đứng nghiêm, trả lời: "Dạ tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức". Ông ta bèn xán cho tôi một câu nhớ đời: "Vậy mà tôi tưởng Chuẩn úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân!" Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là sinh viên sĩ quan trong trường Bộ binh, chúng tôi thường coi là điều sỉ nhục khi bị cấp trên mắng là Nữ quân nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi lặng lẽ ứa nước mắt.
Tôi về làm Trung đội phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72, anh ta là người trí thức có bằng Cử nhân Chính trị Kinh doanh. Thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh thương tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài, dở khóc dở cười, không sao quên được.
Thường thường chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ. Thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông dội lên người. Tắm một hồi, tôi cảm thấy có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, rồi còn xầm xì bàn tán gì đó. Bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có anh lính lên tiếng: "Sao Chuẩn úy không xuống tắm với tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! sao nước da của Chuẩn úy trắng nõn như da con gái vậy"
Tôi ngượng điếng người, cảm thấy máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, cái ông Thượng sĩ già đứng gần đó còn đớp thêm một câu:" Ý cha! cái bàn chân của Chuẩn úy đẹp như bàn chân của các tiểu thơ, bàn chân này chắc sẽ có số sướng lắm đây!" Thật là khổ cho cái thân học trò, hết là Nữ quân nhân, bây giờ lại giống con gái, thiệt chán.
Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy, Hậu Mỹ là nơi tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị và cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa xạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi, là bắt đầu nai nịt lên đường, để tham dự cuộc hành quân lục soát hàng ngày. Bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đầu gối, rồi khi vượt qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế chúng tôi ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo chúng tôi nhuộm phèn vàng chạch, trông rất kỳ quái.
Hậu Mỹ là vùng lúa xạ nên rất ít bờ ruộng, khi đã đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch cho tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được. Đất ruộng người dân cày xới lên, thành từng tảng đất to như trái dừa lớn, ngổn ngang kín mít mặt ruộng và nước thì lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên khi rút bàn chân lên thật khó nhọc. Mặt trời rọi ánh nắng gay gắt khiến mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có người lính đệ tử mang vác phụ. Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn, phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối, xẽng, dao... người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không nghe một lời than van nào, họ cắn răng lại mà cam chịu, bởi vì có than van cũng chẳng ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo vắt mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật ra đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết. Lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn là sống, đời lính sao mà khổ quá!
Theo Đặc san Cư An Tư Nguy, phát hành tại San Diego, thì Trường Bộ Binh Thủ Đức đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn Sĩ quan đã tử trận và không dưới 10 ngàn người đã trở thành Phế binh.
Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ quan mới ra trường và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, Sĩ quan Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính. Khi đóng quân phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung đội trưởng Trinh sát không có bạn nữa mà chỉ có phía địch quân. Cho nên lính dễ chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như nhau, súng đạn thì vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế.
Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh, trong khi Chuẩn úy Thắng chuyện trò với Đại bàng qua máy truyền tin. Sau đó im lìm không nghe thấy lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính truyền tin nói với Ch/U Thắng: "Đại bàng kêu Ch/U lên trình diện gấp." Anh Thắng bỏ đi một hồi, thì lính truyền tin lại bảo tôi: "Đại bàng muốn gặp Ch/U Châu"
Tôi mới vừa cầm ống nghe áp vào tay, thì nghe chửi xối xả, giọng ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra là do Ch/U Thắng quá sợ nên không dám xua quân tấn công. Đại bàng gầm lên bảo tôi: "Nè! Ch/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không? Tôi nghe lịnh mà sợ muốn "té đái trong quần", run lập cà lập cập rồi trả lời tuân lịnh. Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi cầm khẩu súng tiểu liên M16, miệng chỉ kịp kêu lớn: "Tất cả theo tôi". Lúc đó tôi "quíu" quá, nên không còn nhớ đến bài bản chiến thuật nào từng học ở quân trườn.
Tôi xông lên, vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa!) Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo. Phía bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, chắc tưởng sau tôi là đại quân ghê gớm, bèn lập tức tháo lui. Trong lúc vội vàng họ còn bỏ lại mấy cây súng AK nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút. Ai cũng tưởng tôi gan dạ chứ đâu có biết rằng tôi làm được như thế vì quá "rét" ông xếp dữ dằn.
Sau đó Đại bàng kéo quân lên, ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lại lập chiến công "khùng điên ba trợn" như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy trung đội lại cho Ch/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.
Sau “chiến công đầu tiên”, tôi được điều qua các Trung đội khác, xử lý công việc tạm thời cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương. Một điều may mắn, (hay Trời đãi kẻ khù khờ!) khi nắm quyền tạm thời đó, với những trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Đại bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ aí ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi.
Ông Đại bàng này sau đó thuyên chuyển qua đơn vị khác. Đại bàng mới đến thay thế cũng mang cấp bậc Trung Úy, nhưng dáng dấp thư sinh, ăn nói hiền lành hơn ông trước. Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, ông cũ giới thiệu các sĩ quan trong đơn vị cho ông mới. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một Trung đội phó, rồi đưa ra nhận xét làm sửng sốt mọi người: "... đây là một sĩ quan xuất sắc, một tay chơi tới bến của đơn vị..." Hai người sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Với Đại bàng mới, ông ta lấy làm lạ vì ông cứ ngỡ sĩ quan xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng kia, sao lại là cái tay Trung đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Có lẽ vì cái nhận xét này, chỉ một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại bàng mới cất nhắc lên làm Trung đội trưởng thật thụ.
Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải tận lực lo công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp chỉ huy, chính điều đó đã đẩy trung đội tôi vào chốn hung hiểm. Khi Đại đội tiến quân vào nơi tử địa, trung đội tôi được lịnh đi đầu, khi rút quân từ nơi đó ra, chúng tôi bao chót. Khi tấn công vào mục tiêu, chúng tôi được giao nơi khó gặm nhất, và khi phòng thủ thì chúng tôi nằm nơi dễ chết nhất.
Người ta thường nói: "Nhất tướng công thành, vạn cốt khô", tôi không phải là tướng, chỉ là một sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều và nhanh chóng đến nỗi tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy của Đại bàng dành cho tôi mà trung đội tôi phải chịu những tai ương này.
Ông ta rất quí mến tôi, chưa hề quát mắng tôi một tiếng nặng lời nào, có món ăn ngon, ông sai đệ tử đến mời tôi dùng cơm với ông, có huy chương nào quí giá ông đều ưu tiên dành cho tôi. Ông qúi tôi như vậy vì ông biết rằng, nếu cứ xử dụng tôi như thế thì trước sau gì tôi cũng chết. Làm sao tôi sống thọ, khi đi hết chiến trường này đến chiến trường khác, mà lại toàn là những nơi "đầu sóng ngọn gió". Vậy mà điều là lùng là tôi vẫn sống.
Khi về đơn vị Trinh sát này, tôi có được một điều may mắn, là được phục vụ trong một đơn vị lưu động khắp miền Tây. Khởi đầu của tôi là tại Cái Bè- Cai Lậy với các địa danh nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo, Láng Biển...
Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, rẽ trái đi thêm một đoạn xa nữa, tới một nơi tận cùng gọi là Bình Thạnh Thôn, còn có tên là Long Khốt, đây là một trong những chiến trường ác liệt nhất của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Từ nơi này, chúng tôi ngồi xe Thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng ngự, chính cái lúc băng ngang này đây, tôi mới biết rõ về Đồng Tháp Mười, đây là một vùng đầm lầy kinh hãi nhất. Đi suốt một ngày với Thiết giáp, tôi không hề thấy có một loài cây nào sống nổi, ngoại trừ loại cỏ bàng (dùng để dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước phèn màu vàng sậm. Tóm lại không có một sinh vật nào sống nổi huống chi là con người, vùng đầm lầy chạy dài ngút mắt đến chân trời, khung cảnh im lìm ghê rợn.
Rồi có khi, chúng tôi rời Mỹ Tho xuôi Nam, băng qua sông Tiền bởi Phà Mỹ Thuận, rồi băng qua sông Hậu với Phà Cần Thơ, xuôi theo lộ cái tới Cái Răng- Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền - Cầu Nhím. Nơi đây tôi ngạc nhiên với vùng giàu có tột bực này. Ở đây người dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy lền trên mặt sông, để đến điểm tập trung giao hàng chở đi các nơi khác. Nhà cửa của họ ở miệt vườn mà trông rất bề thế như biệt thự ở thành phố chứ không phải thường.
Rồi chúng tôi đến Phong Phú- Ô Môn, tiến sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai- Cờ Đỏ, sự trù phú không sao tả xiết. Có khi chúng tôi ngồi tắt ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, hai bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ theo kiểu miệt vườn, không hề có cảnh nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng bề thế có xe máy cày đậu bên hông. Tuy nhiên càng vào sâu hơn nữa, chúng tôi gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm- Thát Lác, vì giặc giã dân chúng tản cư đi hết, nhà cửa bỏ hoang phế trông rất âm u rợn người.
Trong tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm,vừa thích thú vừa buồn rầu đau đớn. Mùa Khô năm 1974, Đại đội chúng tôi được trực thăng bốc từ phi trường Cao Lãnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi nhảy líp đầu, khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về vùng đất xa lạ này. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ ruộng nào cả, trên cánh đồng có nhiều gò đất nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi trung đội rời khỏi trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm chiếm một gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho dừng quân lại, dàn hàng ngang nằm yểm trợ cho một toán khinh binh vào lục soát.
Sau một hồi, thấy không có gì lạ, khinh binh khoát tay cho trung đội tiến vào. Khi vào tới nơi, tôi tung các toán ra canh gác chung quanh gò. Trên gò có thật nhiều cây xanh che bóng mát và có vài đìa cá, lính tráng người nào không mắc phiên gác thì ùa xuống tát đìa. Khi đìa cạn, cá lộ ra bò lúc nhúc đặc lền như bánh canh.
Một lát sau cả Đại đội theo trực thăng đổ xuống, kéo vào gò trú ẩn vị trí cũng vừa đủ. Đêm tới, chờ cho trời tối hẳn, Đại bàng ra lịnh kéo quân đi đến một vị trí khác để đóng quân, vì vị trí ban ngày đã bị lộ. Chúng tôi kéo qua một cái gò khác, đêm đó chẳng ai ngủ được, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc lùng sục khắp nơi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ. Tờ mờ sáng hôm sau, có một đàn xe bò đông đảo khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chỗ đóng quân, lính tráng hỏi họ đi đâu, họ nói kéo nhau đi tát đìa, trời đất! Tát đìa mà kéo một đàn xe bò như thế này ư?. Không biết họ đi đến đâu, chiều đến họ kéo về, xe nào cũng đầy ắp cá chứa lủ khủ trong thùng chậu lớn. Sau đó họ đi đến bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá về Hồng ngự.
Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo hai bên bờ rạch có tên là Rạch Cái Cái. Vì người dân sống trong vùng nước nổi nên nhà cửa họ cất cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn. Nơi đây đúng là cùng trời cuối đất mà tiếng bình dân gọi là Hóc bà tó. Đây là vùng tranh chấp giữa hai bên nên chiến trận nổ ra liên miên, người dân họ sống rất là tạm bợ, cả xã có vài ngàn người, vậy mà số người biết đọc biết viết chỉ đếm trên đầu ngón tay. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng tạp hóa hay ghe hàng bông (rau quả) được chở tới từ Hồng ngự. Tôi hỏi họ sao cánh đồng này kỳ lạ, phẳng lì như sa mạc, tôi chưa từng thấy bao giờ. Họ nói, tới mùa lũ tràn về, không có bờ ruộng nào chịu nổi trước sức nước, nên họ để mặc như thế, ruộng của ai người đó biết, họ đã quen từ nhiều đời như thế rồi.
Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào bất cứ nhà ai, chủ nhà nào cũng rất hiếu khách và xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượu đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn dấm tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi, ăn với khoai lang hay bắp luộc. Lúc đầu thấy mắm sống tôi sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã "hãi" nói chi tới ăn. Đám lính chúng tôi đang lội sình "mệt nghỉ", nay được đưa về nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là "đã đời", chúng tôi hành quân mà như đi picnic. Nhưng trong lòng tôi linh cảm có cái gì đó không ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được tung vào nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi chơi như thế này.
Sau một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường một Chi đoàn Thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này, vùng hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hàng ngày chúng tôi hành quân tùng thiết với thiết giáp, đi lục soát nơi này nơi khác, vẫn bình yên không hề có tiếng súng.
Rồi cuối cùng cái ngày giông bão đó đã đến. Hôm đó bình thường như mọi ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân, đi đến các điểm đã chỉ định sẵn trên bản đồ. Tới một điểm bất chợt, đoàn xe dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ vì sình lầy nên không tiến sâu được. Lính Trinh sat chúng tôi được lịnh xuống xe tiến vào bờ vườn. Trung đội tôi đi cánh trái của đội hình Đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng:
"Tất cả tản thưa ra, đi túm tụm lại như vầy dễ ăn đạn lắm" Không ngờ lời nói của tôi "linh như miễu", đạn phát nổ vang trời dậy đất. Tôi bị trúng đạn, bật người ngã xuống đất, máu không biết ở đâu chảy xuống mặt thành dòng. Tôi ra lịnh bắn lại xối xả, nếu không phía bên kia thừa thắng xông lên thì thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im bặt, lúc đó tôi mới có thời gian để xem xét, coi mình bị thương ở đâu.
Sau đó tôi giật mình, hết sức king ngạc vì tôi bị bắn trúng một lượt hai viên đạn AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng colt tôi nhét trước bụng, viên đạn bể ra văng miễng tứ tán, ghim lên mặt khiến máu chảy thành dòng là vì thế, phần còn lại của viên đạn chui tọt vào đùi máu ra chút ít không nghiêm trọng. Viên đạn thứ hai mới ghê, nó ghim vào cái bóp tôi để trên ngực áo trái phía trước trái tim, viên đạn đã quậy nát cái bóp, trong đó tôi để rất nhiều tiền vì mới lãnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn nằm yên trong đó, có lẽ tầm đạn bắn quá gần khiến viên đạn không đủ sức xuyên phá để đâm vào trái tim của tôi. Lúc đó tôi sợ lắm và cũng nghĩ đến một quyền lực thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi. Chứ trên đời này đâu có ai bị bắn trúng một lúc hai viên đạn mà còn sống sót như tôi.
Kế đó, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử của tôi: "Thiếu úy ơi! Cứu em!" Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra nãy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết, bởi vì cỏ cao che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước tôi khoảng dăm ba thước. Thông thường, mỗi sĩ quan Trung đội trưởng có hai người lính đệ tử, hai anh chàng này có nhiệm vụ lo mang vác đồ đạc và lo chỗ ăn chỗ ngủ cho ông thầy. Những người đệ tử của tôi thường đồi xử với tôi rất chí tình, họ sẵn sàng sống chết với tôi mà không hề so đo tính toán. Khi tôi dẫn trung đội xung trận, hai người lính này theo sát để bảo vệ tôi.
Hôm ấy, một trong hai đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó mãi cho đến tận bây giờ. Vậy mà 39 năm trôi qua tôi chớ có một lần nào về đứng trước mộ anh, để đốt một nén nhanh nói lên lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ Nguyễn văn Đồng, một cái tên bình thường vô danh, nằm lẩn khuất đâu đó trong hàng triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tức tưởi này.
Sau khi bị thương, tôi giao trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn úy Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài cho y tá băng bó vết thương, rồi leo lên xe Thiết giáp ngồi nghỉ và quan sát trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn úy Tường dàn đội hình trung đội hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: "Đừng làm thế, Tường ơi!" Sau đó trung đội tôi bị bắn tan tác, Chuẩn úy Tường trúng đạn vô bụng chết tại mặt trận, mắt vẫn mở trừng trừng, có lẽ anh ta không biết sao mình lại chết như vầy. Trung đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. " Tường ơi! Vĩnh biệt!".
Không biết sao Đại đội tôi đóng quân bên bờ Rạch Cái Cái trong một thời gian rất dài. Cho tới ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không còn cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước dâng cao mỗi ngày cả gang tay, đến lúc đó mới thấy lúa xạ là loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì lúa cũng dài ra 5-6 mét, tôi chưa thấy nơi nào lại có cây lúa kỳ lạ như vậy.
Rồi đến lượt cá Linh kéo về, cá nhiều đến nổi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nổi lền cả một khúc sông, và thêm một điều kỳ lạ nữa là người dân ở đây họ không ăn cá Linh. Sao lạ vậy? Họ nói, họ thấy cá Linh cả đời nên đâm ra ngán tới cổ.
Ô! nước cứ dâng lên mãi, khiến chúng tôi kiếm chỗ đóng quân khá vất vả, chúng tôi rút lên gò cao, thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo trong mùng rất ghê khiếp. Cả đơn vị phải chẻ nhỏ ra thành từng toán. Có hôm, toán của Thầy trò chúng tôi kéo lên một cái gò còn khô ráo, đêm đó như thường lệ tôi nằm ngủ dưới một mái lều.
Tới nửa đêm tôi đang ngủ mê mệt, thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình, ở chốn trận tiền ai ngủ cũng phải thật nhạy thức. Tôi cũng vậy, tôi tưởng đâu lính gác báo động nên vội vàng ngồi dậy, tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng vằng vặc, một em bé gái chừng 12-13 tuổi đang đứng nhìn tôi và mỉm cười thật tươi tắn. Tôi trố mắt nhìn ngẩn ngơ một hồi, rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá vội nằm xuống kéo mền trùm kín đầu, nhưng không ngủ được nữa.
Sáng ra, tôi thấy chỗ tôi ngủ đêm qua nằm kề bên một cái trang thờ xiêu vẹo mục nát. Tôi bèn rảo bước đi vào làng hỏi thăm về cái trang thờ trên gò nhỏ này. Người dân cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày em chèo xuồng ra đồng nhổ bông súng đi bán dạo, rồi một hôm em ra đồng như thường lệ, một lát sau thì súng đạn hai bên nổ rang, em bị đạn lạc chết trên gò. Em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm em hiện về khóc lóc thảm thiết. Dân làng thấy vậy bèn làm cho em một cái trang thờ để nhang khói cho em. Câu chuyện của em thật tội nghiệp.
Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm viếng những gia đình có người thân chết trận. Vậy mà có lần tôi phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ.
Chuẩn úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi gần một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt nét con nít. Mặt Hà đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích ăn kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống một ly, vừa uống vừa chắt lưỡi hít hà như uống thuốc độc. Điều đặc biệt nhất của Hà là anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe tiếng đại bác anh ta nhắm chặt mắt lại, bịt kín lỗ tai và mặt mày tái mét. Lúc đầu anh ta về làm phó cho tôi, làm giọng "chảnh" tôi hỏi anh ta một cách xách mé: "Sao ông nhát hít như vầy mà sao lại xin về Trinh sát?" Anh ta bèn phân trần, đâu có xin xỏ gì, Ban Quân số thấy không có ai tình nguyện về TS nên bèn chỉ định bừa, ai dè trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, vậy mà còn phải ngó chừng cho anh ta nữa, vì Hà có biết cái gì đâu, thiệt khổ.
Càng về sau, các sĩ quan càng rơi rụng dần, Chuẩn úy Hà cà ngáo cũng được đưa lên làm Trung đội trưởng. Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Hôm đó cả Đại đội được lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội của Hà và một Trung đội nữa vỗ vào mặt chính, còn Trung đội tôi thọc vào cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra một trái B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra trúng vào Hà, tội nghiệp quá Hà chết nát bét không toàn thây.
Lúc Hà còn sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà ở Sài gòn, để nhờ mang quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với gia đình này. Hà mất chừng một tháng thì tôi xin được cái phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia buồn với gia đình. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy tay tôi rồi hỏi dồn dập: "Sao cái hôm em Hà nó chết mà sao cháu không về đưa đám tang cho em?" Tôi lúng túng trả lời:" Thưa lúc đó chúng cháu đánh nhau chí chết ngoài mặt trận, cho nên cháu không thể bỏ đơn vị mà về được!".
Thế là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc ngằn ngặt, nước mắt tuôn ra xối xả làm ướt đầm cả ngực áo. Ông bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết. Nghe ông bà kêu khóc thảm thiết một hồi, tôi không chịu đựng nỗi nữa và tôi cũng không nói được một lời chia buồn nào, bởi vì lời nói nào cho đủ trước một mất mát quá lớn lao này.
Sau cùng, tôi lảo đảo đứng dậy từ giã hai ông bà để ra về. Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu một mình. Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi khá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt.
Cuối tháng 2 năm 1975, tôi bị thương một lần nữa cũng tại Mộc Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh xá Sư Đoàn tại Vĩnh Long. Tại bịnh xá tôi theo dõi tình hình chiến sự trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuột tôi linh cảm điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-1975, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy.
Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4 nhìn về hướng Cần Thơ thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi chớ hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên cho một hành trình bi thảm khác có tên là "Mạt Lộ".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét