khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

Về những ngày "tranh đấu trước 30/4/1975" tại Saigon của SV Huỳnh Tấn Mẫm -- Tác giả Bạch Diện Thư Sinh. Theo bài viết này Viện đại học Minh Đức trong đó có trường mình đứng ngoài vòng "tranh đấu" này. Có phải đây là lý do bị chụp cho cái tội "được ông Thiệu và Mỹ giúp đỡ" ? "MEA CULPA !!!!!!"



Phong trào sinh viên học sinh (svhs) tranh đấu do Thành đoàn Cộng Sản lãnh đạo tại Miền Nam (phân biệt với phong trào sinh viên tranh đấu ngoài Huế và Đà Nẵng được chỉ đạo do một tổ chức khác của Cộng sản) bùng lên khá sôi nổi từ khoảng 1966 tới 1972.

Cũng như tất cả các tổ chức do CS lãnh đạo lúc đó, Phong trào svhs tranh đấu có 2 mặt: nổi và chìm. Mặt chìm là mặt hoạt động bí mật, hầu hết do các đảng viên đảm trách. Họ chính là bộ phận lãnh đạo các hoạt động mặt nổi. Mặt nổi là mặt hoạt động công khai, hợp pháp. Mặt nổi bao gồm những đảng viên, đoàn viên chưa bị lộ diện. Họ núp dưới nhãn hiệu svhs thuần túy để hoạt động tranh đấu. Họ vận động và lợi dụng lòng nhiệt thành của ‘quần chúng tốt’ (1) và của các svhs hăng say, hiếu động để gây nên những phong trào, những cuộc đấu tranh. Có thể nói, trong số những sinh viên Việt Cộng hoạt động tranh đấu công khai, hợp pháp thời đó, Huỳnh Tấn Mẫm là khuôn mặt nổi bật nhất.
Mẫm đã được kết nạp vào đảng Cộng sản, nhưng khôn khéo núp dưới nhãn hiệu một sinh viên Y khoa thuần túy để hoạt động. Có lúc Mẫm nắm tới 3 chức vụ hàng đầu trong các tổ chức sinh viên. Chẳng những Mẫm trở thành lãnh tụ phong trào svhs tranh đấu nổi đình đám trong nước mà còn được cả một số phong trào sinh viên phản chiến bên Âu Mĩ đề cao.

THỜI HỌC SINH

Mẫm sinh 1943 tại Gia Định. Cha mất sớm, có 4 chị, một em trai út. Theo một bài viết của Ngành Mai trên Trang nhà Cải lương Việt Nam thì ‘Huỳnh Tấn Mẫm khoảng tuổi Thanh Nga, sinh quán tại ấp Sơn Cang, thuộc xã Tân Sơn Nhì, tỉnh Gia Ðịnh và địa danh hành chánh này về sau không còn trên bản đồ, do nằm trong vòng đai phi trường Tân Sơn Nhứt. Năm 1950 Pháp mở rộng phi trường Tân Sơn Nhứt, giải tỏa toàn bộ ấp Sơn Cang và gia đình Huỳnh Tấn Mẫm bắt buộc phải dời về ấp Tân Trụ, cùng xã Tân Sơn Nhì, bên ngoài vòng rào phi trường, cạnh Quốc Lộ 1 đường đi Gò Dầu Hạ, Tây Ninh’(2).

Thông cảm hoàn cảnh nghèo khó của gia đình Mẫm, Thầy Đội Chiêu (Chín Chiêu) là thầy giáo mở trường tư ở ấp Tân Trụ, chẳng những cho Mẫm học miễn phí suốt thời tiểu học, lại còn dậy cho Mẫm diễn kịch cải lương. Mẫm đuợc thủ vai chính trong ban kịch cải lương của thầy đội Chiêu và đóng rất xuất sắc, nhất là vai Đinh Bộ Lĩnh trong vở Cờ Lau Tập Trận. Đoàn hát tài tử trẻ của thầy đội Chiêu diễn nổi tiếng khắp nơi, từ ngoại ô vào tới nội thành Sài Gòn. Bà bầu Thơ của đoàn Thanh Minh đã từng tới tận nhà để thuyết phục bà Thơm, má của Mẫm, cho anh ta gia nhập đoàn cải lương, nhưng bà Thơm dứt khoát hướng con đi theo đường học vấn, nếu không, có lẽ anh ta đã trở thành kép cải lương tên tuổi (3).

Xong tiểu học, Mẫm thi đậu vào trường Trung học Petrus Ký (nay là Lê Hồng Phong).
Năm 1963, Mẫm đậu Tú tài toàn phần và trúng tuyển kì thi vào Đại học Y khoa Sài Gòn. Mẫm học khá cho nên được Bộ Y tế cấp học bổng.

ĐƯỢC KẾT NẠP

1958, lên 15 tuổi, đang học lớp Đệ ngũ (lớp 8) trường Pétrus Ký, Mẫm được kết nạp vào tổ chức bí mật do Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí) cầm đầu. Tại đây, Mẫm từng được giao công tác rải truyền đơn chống chính phủ và năm 1960 được kết nạp vào Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng Sài Gòn-Gia Định.

Vì đã được kết nạp vào tổ chức của CS nên thời kì xáo trộn 1963, Mẫm luôn luôn có mặt và hành động táo bạo trong hầu hết các cuộc biểu tình chống chính quyền và đã từng bị bắt. Do quá trình tranh đấu, năm 1965, Mẫm được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng.

Ngày 19 tháng 6 năm 1965, nội các chiến tranh Nguyễn Cao Kỳ ra mắt, không có tay chân thân tín nào của TT. Thích Trí Quang được mời vào nội các khiến ông bất mãn và muốn làm đảo chánh. Nhưng lần này ông không được phía Hoa Kỳ ủng hộ như hồi 1963 nữa. Ông trở về Huế, chuẩn bị gây cuộc bạo loạn miền Trung bắt đầu từ khoảng tháng 2 năm 1966. Bạo loạn miền Trung cũng được một số thành phần tiếp tay hưởng ứng ngay tại Thủ đô Sài Gòn. Cho tới giai đoạn này các phần tử svhs do Thành Đoàn lãnh đạo chưa nắm được các tổ chức công khai tại các phân khoa đại học và Tổng hội SVSG, nhưng nhân có cuộc đấu tranh của Phật giáo do phe Ấn Quang lãnh đạo, Thành Đoàn CS mau chóng chớp thời cơ, chỉ thị cho các svhs thuộc tổ chức của họ phải tìm cách len lỏi trà trộn vào mọi hoạt động chống chính quyền, quậy phá làm cho tình hình nát bấy ra bao nhiêu hay bấy nhiêu. Một trong những cuộc biểu tình chống chính phủ ‘đàn áp Phật giáo’ phát xuất từ trường Đại học Y khoa, (lúc ấy còn ở số 28 Trần Quý Cáp, nay là Bảo tàng chứng tích chiến tranh, đường Võ Văn Tần, Quận 3). Trên đường tuần hành, Mẫm và Nguyễn Tấn Á hành động hung hãn nổi bật, khiến cho nhân viên công lực phải chấm định làm đối tượng hàng đầu. Đương nhiên Mẫm và Á đã bị bắt cùng với một số đối tượng đi tiên phong khác như Hồng Khắc Kim Mai, Tôn nữ Quỳnh Trân, Phạm Đình Vy…(Nguyễn Tấn Á là học sinh cầm đầu nhóm tranh đấu bạo động thuộc trường Trung học kĩ thuật Cao Thắng. Tiếp nối vị trí của Á sau này là Lê Văn Nuôi ).

Trong giai đoạn này, chính quyền chưa nắm đủ yếu tố buộc tội bọn này, cho nên chỉ sau một thời gian ngắn, tất cả đều được thả ra.

Do những thành tích tham gia tích cực các cuộc biểu tình tranh đấu, ngày 03 tháng 02 năm 1966, Mẫm được kết nạp làm đảng viên Đảng Nhân Dân Cách Mạng VN (Đảng Cộng Sản) do Nguyễn Ngọc Phương và Phan Đình Dinh (tức Chín Kế, thuộc Đoàn ủy Sinh viên Khu Sài Gòn – Gia Định) giới thiệu. Nghi thức kết nạp đơn giản với cờ Đảng (cờ đỏ búa liềm) được diễn ra tại nhà người chị của Mẫm ở Bà Quẹo, xã Tân Sơn Nhì, quận Tân Bình do chính Phan Đình Dinh (Chín Kế) chủ trì (4).

Sau khi được kết nạp Đảng, Mẫm càng hoạt động tích cực hơn. Trong cuộc bầu cử ngày 20 tháng 12 năm 1968, liên danh Nguyễn Đình Mai (Chủ tịch) và Huỳnh Tấn Mẫm (Phó Ngoại vụ) đắc cử Ban đại diện (Bđd.) sinh viên Đại học Y khoa Sài Gòn.

Đánh giá cao khả năng của Mẫm, Thành Đoàn đã tuyển chọn Mẫm làm bí thư chi bộ Đảng Đoàn Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (SVSG), mang bí số L.71 (5) với nhiệm vụ: bằng mọi cách phải nắm được những vị trí hợp pháp công khai trong tập thể sinh viên để dấy lên mạnh mẽ phong trào svhs đấu tranh ngay tại Thủ đô Sài Gòn.

THỜI HOẠT ĐỘNG SÔI NỔI

Sau đây là những hoạt động tiêu biểu mà sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm tham dự hoặc đóng vai chủ chốt. Những hoạt động tranh đấu xẩy ra cùng thời gian này không có sự tham dự của Mẫm, vì lí do anh ta bị giam giữ chẳng hạn, sẽ không đề cập tới trong bài này.

Nắm những chức vụ sinh viên hợp pháp

Huỳnh Tấn Mẫm đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do Thành Đoàn giao phó.
Do xẩy ra cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 của Cộng Sản, cuộc bầu cử Bđd. SVSG niên khoá 1968- 69 bị trì hoãn 6 tháng, mãi tới ngày 02 tháng 8 năm 1969 mới tổ chức được. Trong cuộc bầu cử này, liên danh Nguyễn Văn Qùy (Chủ tịch Ban đd. Sinh viên Nông Lâm Súc) đắc cử Bđd. Tổng hội SVSG, đánh bại liên danh Đoàn Kỉnh (Chủ tịch Bđd. Sinh viên Khoa học). Liên đanh đắc cử gồm có 7 thành viên thì 4 là cán bộ Thành Đoàn. Đó là:

– Chủ tịch Nguyễn Văn Qùy (Chủ tịch Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp, còn gọi là Nông Lâm Súc),
- Phó Nội vụ Huỳnh Tấn Mẫm (Phó Chủ tịch Bđd. sinh viên Y khoa),
- Phó Tổng thư kí Nguyễn Hoàng Trúc (Chủ tịch Bđd. Sinh viên Cao đẳng Thú y và Chăn nuôi thuộc Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp),
-Thủ qũy Nguyễn Thị Yến (Phó Chủ tịch Bđd. sinh viên Văn khoa).

Ba thành viên khác là:

- Phó chủ tịch ngoại vụ Đoàn Văn Toại (Phó Chủ tịch Bđd. sinh viên Dược khoa),
– Tổng thư kí Nguyễn Văn Thắng (Chủ tịch Bđd. sinh viên Sư phạm),
- Phó chủ tịch kế hoạch Nguyễn Khắc Dõ (Chủ tịch Bđd. sinh viên Cao đẳng Công chánh/Trung tâm Kĩ thuật Phú Thọ).

Tổng hội SVSG còn có 7 Ủy viên thì Thành Đoàn nắm được:

- Ủy viên văn nghệ (Nguyễn Văn Sanh),
- Ủy viên báo chí-phát thanh (Tô Thị Thủy)
- Ủy viên liên lạc (Nguyễn Tuấn Kiệt).

Hai tháng sau, chủ tịch Nguyễn Văn Qùy tốt nghiệp và ra trường nên Huỳnh Tấn Mẫm lên làm quyền Chủ tịch Tổng hội SVSG.

Cùng thời gian ấy, Mẫm còn được bầu vào chức Chủ Tịch sinh viên Đại học xá Minh Mạng (nay là ký túc xá Ngô Gia Tự). Với chức Chủ tịch Bđd. sinh viên cư xá Minh Mạng, Mẫm tìm cách đưa về đây những sinh viên đã là Đảng viên, Đoàn viên, những sinh viên thân Cộng, khuynh tả hoặc là những sinh viên nghèo, gia đình ở xa để dễ dụ dỗ hoạt động chống chính phủ.

Từ đây, Mẫm nắm được những chức vụ hợp pháp công khai và qua trung gian của Dương Văn Đầy (Bảy Không, Đảng viên từ tháng 9/1966) và Trần Thị Ngọc Hảo (Tư Tín), Mẫm nhận chỉ thị của Thành Đoàn phải dấn thân tích cực, lèo lái tập thể sinh viên Sài Gòn tham gia vào nhiều hình thức đấu tranh chống chính quyền, phá rối hậu phương.

Phong trào Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe

Năm 1969, khi Huỳnh Tấn Mẫm làm quyền Chủ tịch Tổng hội SVSG, Phong trào Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe, thành lập từ 1965, được phát động mạnh mẽ với chủ lực là Đoàn Văn nghệ SVHS Sài Gòn do Tôn Thất Lập làm trưởng Đoàn (khi mới thành lập vào năm 1965 Trương Thìn làm trưởng Đoàn, từ 1969 là Tôn Thất Lập, từ 1973 là Trần Xuân Tiến).
Sang năm 1970, Đoàn Văn nghệ SV Đại học Vạn Hạnh ra đời do Kim Hạnh (nguyên Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ) làm trưởng Đoàn, tăng cường lực lượng cho phong trào này.

- Nhóm chuyên sáng tác của phong trào gồm có: Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, La Hữu Vang, Nguyễn Văn Sanh, Nguyễn Tuấn Kiệt, Trương Quốc Khánh, Trần Long Ẩn, Trần Xuân Tiến, Trương Thìn…

- Những bài ca quen thuộc như: Hát Cho Dân Tôi Nghe, Hát Trong Tù (Tôn Thất Lập), Dậy Mà Đi (Nguyễn Xuân Tân cũng chính là Tôn Thất Lập), Tự Nguyện (Trương Quốc Khánh), Hát Từ Đồng Hoang (Miên Đức Thắng), Non Nước Tôi (Nguyễn Văn Sanh)…

Đêm văn nghệ Hát Cho Đồng Bào Tôi Nghe tổ chức tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 27 tháng 12 năm 1969 dẫn tới quá khích, có nguy cơ bùng nổ bạo loạn cho nên lực lượng Cảnh sát Quận I phải can thiệp, bắt một số những phần tử chủ chốt, trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm, Trần Thị Lan…Nhưng tất cả chỉ bị tạm giam một thời gian ngắn rồi lại thả ra.

Vụ mồng 10 tháng 3

Khoảng thời gian này, phía công lực đã bắt nhiều sinh viên là cán bộ Thành Đoàn, khai thác được nhiều tang chứng, như Dương Văn Đầy (6), Đỗ Hữu Bút, Nguyễn Ngọc Phương và người yêu của Phương là Cao Thị Quế Hương… Rồi đến lượt Mẫm bị bắt tại Đại học xá Minh Mạng sáng ngày 10 tháng 3 năm 1970.
Lập tức bên ngoài các svhs tranh đấu, các dân biểu, giáo sư, trí thức và báo chí đối lập, thiên tả hoặc thân Cộng mở nhiều đợt biểu tình, tuyệt thực đòi thả sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm và các sinh viên bị bắt. Đây là đợt bắt giữ được các thành phần tranh đấu mệnh danh là ‘Vụ mồng 10 tháng 3’.

Phía sinh viên, ngày 29/3/1970, Hội đồng đại diện SVSG lập ra Ủy ban tranh đấu chống đàn áp svhs do sinh viên Đoàn Kỉnh (Chủ tịch Bđd. sinh viên Khoa học) làm chủ tịch và 4 ủy viên là Nguyễn Văn Lang (Phó chủ tịch Bđd. Sinh viên Y khoa), Đoàn Văn Tân (Luật), Đoàn Văn Toại (Phó chủ tịch ngoại vụ Tổng hội), Hạ Đình Nguyên (Chủ tịch Bđd. Sinh viên Văn khoa) và Nguyễn Đình Mai (Chủ tịch Ban đd. sinh viên Y khoa) làm phát ngôn viên Ủy ban.
Ngoài ra, Ủy ban Giáo chức và Phụ huynh chống đàn áp svhs cũng được thành lập do Gs. Lý Chánh Trung làm chủ tịch bao gồm một số tu sĩ, trí thức, giáo chức và dân biểu đối lập hoặc thân Cộng.

Những nhóm tranh đấu kể trên được sự hỗ trợ tích cực của các tờ báo Tin Sáng, Tia Sáng, Điện Tín, Đuốc Nhà Nam với những tên tuổi như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Binh, Kiều Mộng Thu…đã làm cho cái ‘Vụ mồng 10 tháng 3’ năm 1970 trở nên có tiếng vang tại Sài Gòn và được giới phản chiến ngoài nước làm ồn ào lên.

Ngày 20 tháng 4 năm 1970, tòa Quân sự Mặt trận đem ra xử 21 sinh viên tranh đấu. Tới ngày 24 tháng 4 năm 1970, tòa phóng thích 10 đối tượng: Cao Thị Quế Hương, Đỗ Hữu Bút, Võ Ba, Trương Hồng Liên, Võ Thị Tố Nga, Trương Thị Kim Liên, Hồ Nghĩa, Đoàn Chiến Thắng, Lưu Hoàng Thao, và Lê Anh.

Và phiên tòa ngày13 tháng 6 năm 1970 lại thả ra 6 đối tượng, gồm có Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Thành Yến, Đỗ Hữu Ứng, Phùng Hữu Trân, Dương Văn Đầy và Trầm Khiêm (Hai Lâm). Đầy và Khiêm là Đoàn ủy Sinh viên thuộc Thành Đoàn. Còn giữ lại 5 đối tượng là: Nguyễn Ngọc Phương (Bí thư Đoàn ủy Sinh viên), Nguyễn Tấn Tài, Nguyễn Thanh Công, Lê Văn Hoa và Nguyễn Văn Sơn.
Được thả về, Mẫm học năm thứ năm Y khoa, đồng thời tiếp tục tranh đấu.

Chống Chương trình Quân sự Học đường

Ngày 01 tháng 7 năm 1970, một ‘đại hội svhs miền Nam’ được triệu tập tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp mục đích là chống Chương trình Quân sự Học đường, chống sưu cao thuế nặng, đòi trả tự do cho các svhs bị bắt. Đoàn chủ tịch, ngoài Mẫm ra, còn có Đoàn Văn Toại, Nguyễn Hoàng Trúc (Tổng hột SVSG), Phạm Văn Xinh (Tổng hội SV Cần Thơ), Trần Hoài (Hội đồng đại diện sinh viên Huế), Đại đức Thích Quảng Trí (Ủy ban SV tranh đấu chống quân sự học đường Đại học Vạn Hạnh), Lê Văn Nuôi (Tổng Đoàn Học sinh Sài Gòn). Sau hội thảo, tất cả kéo đi chiếm Nha Quân sự Học đường, nhưng bị Cảnh sát ngăn chặn kịp thời.

‘Đại hội SV Thế giới kỳ I’ ngày 11 tháng 7 năm 1970 tại Trung tâm QG Nông nghiệp

Thời điểm này, phong trào chống chiến tranh VN ở HK và một số nước khác bùng lên khá sôi nổi. Sinh viên phản chiến người Mĩ tên là Charles Palmer cùng vài sinh viên phản chiến Âu châu và Úc châu hẹn nhau ‘du lịch’ tới Sài Gòn. Mẫm đi gặp các sinh viên ngoại quốc này và bàn tính với họ về việc tổ chức ‘Đại hội SV Thế giới kì I’dự định tổ chức tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (Nông Lâm Súc). Tối hôm trước ‘đại hội’, tất cả tụ họp tại Chùa Ấn Quang để chuẩn bị cho ‘đại hội’ khai diễn vào sáng hôm sau, ngày11 tháng 7 năm 1970. Trên bàn chủ tọa của ‘đại hội’có Nguyễn Văn Qùy (cựu Chủ tịch Tổng hội SVSG), Huỳnh Tấn Mẫm (quyền Chủ tịch Tổng hội SVSG), học sinh Lê Văn Nuôi (Chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh SG), Nguyễn Thị Yến (Thủ quỹ Tổng hội SVSG), Phạm Văn Xinh (Chủ tịch Tổng hội SV Cần Thơ).

Mẫm đọc diễn văn khai mạc chống leo thang chiến tranh, đòi Mĩ rút quân, đòi Nixon thôi ủng hộ TT Thiệu, đòi hòa hợp hòa giải dân tộc. Sau đó, hô khẩu hiệu ‘đả đảo Nixon’, ‘đả đảo chiến tranh xâm lược Mĩ’, ‘hòa bình cho Việt Nam’. Bên ngoài, 6 toán biểu tình đã sẵn sàng cuộc tuần hành cầm đầu bởi Nguyễn Hoàng Trúc, Hạ Đình Nguyên (Văn khoa), Trương Tấn Nghiệp, Nguyễn Văn Thắng (Sư phạm), Lâm Thành Qúy và Nguyễn Xuân Hàm (7). Mẫm và Charles Palmer đi đầu cùng giơ cao con chim bồ câu trắng. Theo sau là 2 sinh viên nước ngoài khiêng một cỗ quan tài đỏ ghi 2 câu thơ của Tố Hữu: ‘căm thù lại giục căm thù, Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu’. Đoàn người mang các biểu ngữ ‘stop war’, ‘peace now’ và hát bài Dậy Mà Đi (Nguyễn Xuân Tân) và những bài ca đấu tranh (8). Đoàn tuần hành chia 2 ngả tiến về tòa đại sứ Mĩ để trao cho Đại sứ Bunker bản tuyên bố của ‘đại hội’. Nhưng các cánh biểu tình nhanh chóng bị nhân viên công lực dẹp tan ngay trên đường Thống Nhất ngang hông Trường Dược (nay là Lê Duẩn) và trên đường Hồng Thập Tự gần Ty CSQG Quận I (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) để vãn hồi trật tự đường phố Thủ đô. Huỳnh Tấn Mẫm trốn thoát. Các sinh viên ngoại quốc bị tống xuất ngay ra khỏi nước.

Tiếp tục chống quân sự học đường

30 tháng 8 năm 1970, lại tổ chức chống Quân sự Học đường tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp: Cảnh sát ập tới giải tỏa cuộc tụ họp và bắt đi một số. Sau khi lập xong hồ sơ, tất cả đưọc thả chỉ giữ lại 3 đối tượng là Huỳnh Tấn Mẫm, Trần Hoài (Đại học Huế) và Lê Văn Nuôi (học sinh Cao Thắng).
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Gs. Lý Chánh Trung lại cầm đầu cuộc tuyệt thực chống ‘đàn áp svhs’tại Viện Đại học Sài Gòn, gồm một số giáo chức và phụ huynh, một ít sư cô thuộc tịnh xá Ngọc Phương của ni sư Huỳnh Liên, bà Thơm (má của Huỳnh Tấn Mẫm), một số svhs, Ls. Nguyễn Long (Chủ tịch Phong trào Dân tộc Tự quyết), Ls. Trần Ngọc Liễng (Chủ tịch Lực lượng Quốc gia Tiến bộ), Nguyễn Văn Cước (Chủ tịch nghiệp đoàn Hỏa xa), TTThích Mãn Giác, TT Nhật Thường….
Cuối cùng, khi ra tòa, cả ba đối tượng Mẫm, Hoài và Nuôi đều được thả tự do!

Đắc cử Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn niên khoá 1969-70

Ngày 15 tháng 10 năm 1970, liên danh Huỳnh Tấn Mẫm thắng liên danh Phạm Hào Quang (Chủ tịch Ban đd. Sinh viên Khoa học) trong kì bầu cử Ban Đại diện Tổng hội SVSG niên khoá 1969 – 1970. Liên danh thắng cử Huỳnh Tấn Mẫm còn có Phó chủ tịch nội vụ Phạm Trọng Hàm (Chủ tịch Bđd. Sinh viên Nha khoa), Phó ngoại vụ Trần Văn Dương (Phó Chủ tịch Ban đd. sinh viên Sư phạm), Phó kế hoạch Lưu Văn Tánh (Chủ tịch Ban đd. Sinh viên Cao đẳng Điện học), Tổng thư kí Nguyễn Hoàng Trúc (Chủ tịch Cao đẳng Thú y), Phó Tổng thư kí Nguyễn Văn Thắng (Tổng thư kí Bđd. Sinh viên Khoa học), Thủ qũy Nguyễn Thị Yến (Phó Chủ tịch Ban đd. Sinh viên Văn khoa).

Chiến dịch đốt xe Mỹ

Viện cớ để trả đũa vụ học sinh Nguyễn Văn Minh bị lính Mỹ bắn chết ở Qui Nhơn, ngày 07 tháng 12 năm 1970, Ủy Ban Đòi Quyền Sống Đồng Bào thuộc Tổng Hội SVSG sách động chiến dịch đốt xe Mỹ tại Sài Gòn – Gia Định. Chủ nhiệm chiến dịch đốt xe Mỹ là Nguyễn Xuân Thượng (Chủ tịch Bđd. Sinh viên Đại học xá Minh Mạng niên khoá 1970 – 1971. Sau 30/4/75 Thượng làm Phó Giám đốc Công Ty Ăn uống Quận Bình Thạnh), kế nhiệm Nguyễn Xuân Thượng là Võ Thị Bạch Tuyết (sau 30/4/75, Tuyết làm Giám đốc nông trường Đỗ Hòa ở Duyên Hải, rồi Giám đốc Sở Thương binh Xã hội Tp. HCM, về hưu năm 2005). Chiến dịch còn có những tay chủ chốt như Lâm Thành Quí (Phó Chủ nhiệm hành động), Ngô Thanh Thủy (Tư Thanh, Thủ qũy), Phan Nguyệt Quờn (Ba Liễu, ủy viên tổ chức).

Sát hại sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật và tổ chức ‘ma’ Tổng hội Sinh viên Việt Nam

Ngày 20 tháng 6 năm 1971, Liên danh Lý Bửu Lâm (Chủ tịch Ban đd. Sinh viên Kiến trúc) thắng cuộc bầu cử Ban Đại diện Tổng hội SVSG niên khoá 1970 – 1971 tổ chức tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (Nông Lâm Súc), giành lại Tổng hội SVSG từ tay các sinh viên Việt Cộng. Giới sinh viên Sài Gòn và những người quan tâm còn nhớ Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã bị cán bộ của Thành Đoàn Cộng sản khống chế qua 4 nhiệm kì, kể từ nhiệm kì của Hồ Hữu Nhựt 1966-1967, rồi Nguyễn Đăng Trừng 1967-1968, Nguyễn Văn Qùy 1968-1969 và Huỳnh Tấn Mẫm 1969-1970. Sau khi biết kết quả kiểm phiếu nghiêng về liên danh Lí Bửu Lâm, bọn sinh viên Việt Cộng dở ngay bản tính côn đồ, chúng nhảy lên bục đá đổ thùng phiếu và ẩu đả hỗn loạn gây thương tích cho sinh viên Võ Duy Thưởng (cựu Chủ tịch Ban đd. Sinh viên Luật khoa).

Bị thất bại trong cuộc bầu cử Tổng hội sinh viên, Thành Đoàn Cộng sản hết sức cay cú. Họ đã đưa ra 2 quyết định.

* Một là ra lệnh sát hại sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại Đại học Luật khoa Sài Gòn ngày 28 tháng 6 năm 1971, vừa để trả đũa sự thất bại vừa để răn đe các sinh viên quốc gia muốn dấn thân hoạt động trong môi trường đại học. Sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật lập thành tích trong vị trí Chủ tịch, cầm đầu liên danh khuynh hướng quốc gia đánh bại liên danh Trịnh Đình Ban (Bảy Điểm), do Thành đoàn Cộng sản lãnh đạo, trong cuộc tranh cử Ban đại diện sinh viên Luật khoa niên khoá 1970-1971. Sau khi đắc cử Chủ tịch Ban đại diên sinh viên Luật khoa, Lê Khắc Sinh Nhật lại tham gia liên danh Lý Bửu Lâm với chức vụ Phó Chủ tịch Nội vụ trong cuộc bầu cử Tổng hội SVSG và đã đắc cử như vừa nêu trên. Quyết định hạ sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật là một quyết định tàn ác, đê tiện của Thành Đoàn Cộng Sản. Vì thế, sau ngày 30 tháng 4 năm1975, mặc dù họ tung ra nhiều tài liệu và sách báo khoe khoang thành tích đấu tranh của các tổ chức Thành Đoàn, nhưng đặc biệt họ không hề dám công khai nhắc tới ‘thành tích’ ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật (9).

* Hai là Thành Đoàn chỉ thị Huỳnh Tấn Mẫm tập họp một số sinh viên tại trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lý vào ngày 28 tháng 7 năm 1971 để bầu ra một tổ chức chưa bao giờ có. Đó là ‘Tổng hội Sinh viên Việt Nam’, gồm có:

– Chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm,
- Tổng Thư ký Nguyễn Thị Yến,
- Phó Chủ tịch ngoại vụ Lê Văn Thuyên (Chủ tịch Tổng hội sinh viên Huế),
- Phó Chủ tịch nội vụ Phạm Văn Xinh (Chủ tịch Tổng hội sinh viên Cần Thơ).

Tổng hội Sinh viên Việt Nam là một tổ chức ma. Chỉ có những kẻ nặn ra nó công nhận nó. Trên thực tế, tổ chức này không đại diện cho ai vì lúc đó Huỳnh Tấn Mẫm không còn tư cách pháp nhân để đại diện cho tập thể sinh viên Sài Gòn. Sinh viên Lý Bửu Lâm mới là Chủ tịch Tổng hội SVSG từ cuộc bầu cử ngày 20 tháng 6 năm 1971.

Huỳnh Tấn Mẫm ‘tranh thủ’ Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ

Đánh giá có sự rạn nứt và tranh chấp quyền lực trầm trọng giữa ông Thiệu và ông Kỳ, đầu tháng 9/1971, Thành Đoàn chỉ đạo Mẫm phải tìm cách ‘tranh thủ’ ông Kỳ. Với sự môi giới của dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận, ông Kỳ chịu tiếp kiến phái đoàn Huỳnh Tấn Mẫm. Hai bên đều muốn lợi dụng nhau. Ông Kỳ muốn dùng lực lượng của bọn Mẫm để phá ông Thiệu, cho nên đã hứa cho bọn họ mượn Dinh Quốc Khách của Phó Tổng thống để làm trụ sở vì trụ sở Tổng hội SVSG tại số 207 Hồng Bàng đã bị phong tỏa. Sau cuộc yết kiến đó 2 ngày, để phô trương lực lượng với Kỳ, bọn svhs tranh đấu đã tổ chức một cuộc xuống đường đánh nhau với Cảnh sát Dã chiến ngay trên đường Cường Để. Nguyễn Cao Kỳ bay trực thăng tới quan sát và ngay hôm sau ông đã ra lệnh giao Dinh Quốc khách số 4 Tú Xương với đầy đủ văn phòng phẩm, xe cộ và cả lựu đạn MK3 cho bọn Huỳnh Tấn Mẫm để chúng phá cuộc bầu cử tổng thống (10). Có trụ sở an toàn và đầy đủ phương tiện và vũ khí, bọn Mẫm đã tổ chức được một số cuộc biểu tình chống phá cuộc bầu cử tổng thống, làm rối loạn đường phố ở một số khu vực. Việc làm tắc trách của ông Kỳ và bộ hạ khoét sâu thêm hố chia rẽ giữa các cấp lãnh đạo quốc gia và tiếp tay cho bọn svhv Việt Cộng phá rối trị an. (Mời đọc thêm chi tiết về việc Huỳnh Tấn Mẫm ‘tranh thủ’ Nguyễn Cao Kỳ trong bài Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Đại tướng Dương Văn Minh và Sinh viên Việt Cộng Huỳnh Tấn Mẫm của Bạch Diện Thư Sinh).

Một trong những cuộc biểu tình phá rối trị an đã diễn ra ngày 19 tháng 9 năm 1971 tại Đại học Vạn Hạnh. Đây cũng là lần đầu tiên bọn Mẫm dùng lựu đạn MK3. Hôm ấy, bọn Mẫm kết hợp với Tổng hội Sinh viên Đại học Vạn Hạnh và Tổng Đoàn Học sinh Sài Gòn tổ chức cuộc biểu tình bạo động chống bầu cử. Cuộc biểu tình phát xuất từ khuôn viên Đại học Vạn Hạnh rồi lan ra đường Trương Minh Giảng, khiến cả một khúc đường trước cổng trường bị tắc nghẽn. Đang khi đó, các phần tử xung kích liệng lựu đạn MK3 phá các phòng phiếu, bôi xoá và sửa chữa các bích chương tranh cử bằng những lời lẽ xếch mé. Để vãn hồi trật tự, Giám đốc Cảnh sát Đô thành Trang Sĩ Tấn phải đích thân chỉ huy dẹp cuộc biểu tình.

Cơ quan trách nhiệm nhận thấy không thể để cho Mẫm tiếp tục cầm đầu phá rối trị an thêm nữa. Đã đến lúc phải vô hiệu hoá vai trò của Mẫm. Cho nên cuối tháng 9 năm đó, khi từ khách sạn Caravelle trở về Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), Mẫm bị Cảnh lực bao vây, nhưng đã được Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ phái người giải thoát và sau đó y lại được Tướng Dương Văn Minh cho sĩ quan tùy viên là Thiếu tá Trịnh Bá Lộc tới đón về ẩn náu 6 tháng trời tại tư dinh của ông, tức Dinh Hoa Lan (11).

Sáu tháng sau, ngày 01/1972, Mẫm rời Dinh Hoa Lan của Tướng Minh để ra chuẩn bị cho cuộc bầu cử Ban Đại diện SV Y khoa niên khoá 1971 – 1972.

Ngày 05/01/1972, sau cuộc họp ở Đại học Y khoa, Mẫm được Nguyễn Văn Lang (Phó Chủ tịch Ban đd. Sinh viên Y khoa) chở về Đại học xá Minh Mang, tới ngang cổng Bệnh viện Hồng Bàng (nay là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch) thì Mẫm bị bắt.
Tới đây kể như chấm dứt một thời hoạt động sôi nổi của sinh viên Việt Cộng Huỳnh Tấn Mẫm.

Mẫm tiếp tục là tù nhân của chính đồng chí mình

Theo luật pháp VNCH, không thể giữ một nghi can lâu được nếu không có bằng chứng, cho nên bọn sinh viên Việt Cộng bảo nhau bất cứ giá nào cũng không nhận, không khai điều gì có liên quan tới Cộng Sản thì chắc chắn sẽ được xét thả ra.

Tới năm 1971, phong trào svhs tranh đấu do Thành Đoàn Cộng Sản lãnh đạo đã quậy phá ‘tưng bừng’tại Thủ đô Sài Gòn, nhưng chỉ sau 2 vụ ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngày 28 tháng 6 năm 1971 và Gs.Nguyễn Văn Bông ngày 10 tháng 11 năm 1971 do bọn Biệt động thành T4 (Ban An ninh/Trung Ương cục) thi hành thì Tướng Nguyễn Khắc Bình (Đặc ủy trưởng Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo và Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia) mới quyết tâm đối phó với mặt trận trí vận nói chung và mặt trận tại đại học nói riêng. Trọng trách giao cho Ban A 17 thuộc Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, nhiệm vụ là ổn định đại học, đặt dưới quyền của ông Nguyễn Thành Long (hỗn danh Long Quắn), một cấp chỉ huy kiệt xuất. Đây là một quyết định sáng suốt cùa Tướng Nguyễn Khắc Bình.
Ban A 17 nhập cuộc thì thế trận mau chóng trở nên bất lợi cho Thành Đoàn Cộng Sản. Lực lượng Ban A 17 bao gồm các cán bộ chọn lọc, phân nửa đã tốt nghiệp từ các phân khoa đại học, phần còn lại sắp tốt nghiệp hoặc đã có vài năm đại học. Tất cả rất am tường môi trường đại học, lại được sự cộng tác chặt chẽ, đắc lực của ngành Cảnh sát Đặc biệt tại Đô thành, cho nên chỉ trong một thời gian ngắn, công tác ổn định đại học đã gặt hái thành quả mĩ mãn. Lần lượt Tổng hội SVSG và các Ban đại diện sinh viên các phân khoa đại học đã thuộc về tay sinh viên quốc gia. Nhiều sinh viên Việt Cộng bị bắt giữ, một số chạy thoát vào căn cứ. Chẳng những các tổ chức hợp pháp, công khai của Thành Đoàn Cộng Sản bị phá vỡ, họ còn bị thiệt hại lớn về cán bộ, nhân sự.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thành Đoàn cho ra nhiều tài liệu khoe khoang thành tích phá phách hậu phương VNCH hồi trước 1975, nhưng họ phải công nhận đã bị đánh bại. Chẳng hạn trong cuốn Trui Rèn Trong Lửa Đỏ, trang 186, tác giả bài ‘Lửa trong tim Lửa trên đường phố’ là Hàng Chức Nguyên đã viết: ‘…bởi vì từ năm 1972, địch đã ra tay khủng bố, càn quét, hòng đè bẹp các phong trào đấu tranh. Hầu hết những trụ sở tập họp công khai của thanh niên , sinh viên học sinh đều bị chúng phá hủy hoặc chiếm đóng…Tình hình im ắng, căng thẳng, không một cuộc đấu tranh công khai lớn nhỏ nào nổ ra được…’

Một sinh viên Việt Cộng dù kiên quyết áp dụng công thức ‘nhất lý, nhì lì, tam suy, tứ tử’ (cố mà cãi lý hoặc phản cung, cãi lý không xong thì dở chiêu lì đòn, lì không được thì giả đò bệnh hoặc tự làm cho ra bệnh để được đi bệnh viện, cuối cùng, giả làm như chết đến nơi, cũng là để được đi bệnh viện, đi bệnh viện mới có nhiều cơ hội đào thoát) nhưng do đồng bọn khai báo về y thì chính quyền vẫn có bằng chứng để giam giữ đối tượng Việt Cộng ấy và Ủy Ban An ninh Đô Thành (gồm đại diện Ông Đô trưởng, đại diện Ông Chưởng lý và đại diện Tổng Giám đốc Cảnh sát Đô thành) không thể thả y ra như lúc trước được nữa.

Huỳnh Tấn Mẫm bị giam giữ lần sau cùng này nằm trong trường hợp ấy.

Theo tiến trình thi hành Hiệp định Paris 27 tháng 01 năm 1973, ngày 20 tháng 02 năm 1974, Mẫm được đưa lên Lộc Ninh trao trả cho phía Việt Cộng, nhưng vì còn muốn lợi dụng Mẫm ở thế hợp pháp cho nên phía Việt Cộng nêu lý do Mẫm là sinh viên không phải là tù binh và yêu cầu trả Mẫm về gia đình. Mặc dù không muốn, nhưng không dám cưỡng lệnh cấp trên, Mẫm cũng đành miễn cưỡng đòi trả y về gia đình theo điều 8c và 21 của Hiệp Định Paris. Sự việc này chứng tỏ Mẫm như một quả chanh mà cấp chỉ đạo của y muốn vắt cho hết nước. Mẫm căy đắng phải chấp nhận tiếp tục ngồi tù do chính các đồng chí của mình. Trong cuốn Huỳnh Tấn Mẫm Một Đời Sôi Nổi của Diệu Ân, Mục Đồng Đội Nói Về Anh, trang 247, Ngô Đa đã viết: Anh Mẫm có tâm sự với tôi: ‘Năm 1974, thực hiện Hiệp Định Paris về trao trả tù binh, thật lòng mình muốn trao trả về Lộc Ninh, về ‘phe ta’ cho sớm để được thoát cảnh địa ngục trần gian, thoát những trận đòn tra khảo tàn khốc không thể tưởng tượng nổi…Nhưng do yêu cầu của tổ chức lúc bấy giờ, với tư cách là lãnh tụ phong trào sinh viên học sinh đấu tranh công khai, tôi phải đòi địch trả tự do cho tôi về với gia đình tại Sài Gòn’ (12).

Các viên chức phái đoàn VNCH chấp nhận đưa Mẫm trở về, nhưng biết chắc nếu thả Mẫm ra, y sẽ lại cầm đầu phá rối trị an, cho nên giới hữu trách đã giam giữ y vào khám Chí Hòa, rồi Tổng Nha Cảnh Sát. Hai tháng sau, ngày 21 tháng 4 năm 1974, Mẫm được chuyển ra trại chiêu hồi tại eo biển Lagi, Hàm Tân. Tại đây có phái đoàn nghị sĩ HK, rồi sau đó một tùy viên tòa Đại sứ Mĩ tới thăm Mẫm. Mẫm lợi dụng tố cáo bị chính quyền ngược đãi, đòi ngưng việc trả thù, đòi trả tự do cho các sinh viên bị bắt, đòi thả tù chính trị, đòi được đối xử nhân đạo.

Mẫm ở đây tới tháng 4 năm 1975, tình hình biến chuyển mạnh, quân đội VNCH đang di tản. Viên sĩ quan phụ trách Mẫm một mình dùng ghe đưa Mẫm vào Nam. Qua các bót Cảnh sát Long Hải, Vũng Tầu, Gò Công, Chợ Gạo, Long An, Tổng Nha, không chỗ nào chịu nhận Mẫm. Cuối cùng viên sĩ quan áp tải phải đưa Mẫm tới một bót Cảnh Sát gần Thảo Cầm viên để ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, ngày 29 tháng 4 năm 1975, Thủ tướng hai ngày Vũ Văn Mẫu tuyên bố người tù chính trị đầu tiên được thả là Huỳnh Tấn Mẫm. Khoảng 10 giờ sáng, chuẩn tướng Cảnh sát Bùi Văn Nhu đích thân chở Mẫm tới Dinh Hoa Lan giao cho Thiếu tá Trịnh Bá Lộc (trợ lí văn phòng của ông Dương Văn Minh). Tại đây Mẫm yêu cầu Lý Quí Chung (tân Bộ trưởng Thông tin trong chính phủ Vũ Văn Mẫu) sắp xếp cho y được lên tiếng trên đài truyền hình Sài Gòn vào tối 29 tháng 4 năm 1975. Mẫm ngỏ lời cám ơn những người đã ủng hộ y và yêu cầu thả hết tù chính trị, yêu cầu đồng bào đừng nghe lời ‘kẻ xấu’ mà di tản ra nước ngoài. Trong buổi phát hình sáng 30 tháng 4 năm 1975, Mẫm lặp lại như tối hôm trước và thêm vào lời kêu gọi svhs, các nhân sĩ, trí thức và các ‘ba má’ phong trào tham dự buổi họp mặt lúc 9 giờ sáng 01/5/1975 tại Trụ sở Tổng hội Sinh viên số 4 Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch). Khoảng 10 giờ 45 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Huỳnh Tấn Mẫm cùng với Nguyễn Hữu Thái, Lê Văn Nuôi (Ghi chú của BDTS: Không thể có mặt Lê Văn Nuôi ở đây, vì giờ phút đó Nuôi còn đang bị giam giữ ngoài Côn Đảo. Nuôi chỉ về Sài Gòn sau khi Côn Đảo lọt vào tay Việt Cộng) đeo băng đỏ có mặt tại Đài phát thanh Sài Gòn vào giờ phút lịch sử khi Dương Văn Minh đọc văn kiện đầu hàng (13).

SAU 30 THÁNG 4 NĂM 1975 MẪM KHÔNG NGÓC ĐẦU LÊN NỔI

Trong cuốn tự truyện Lạc Đường, tác giả Đào Hiếu, một cựu sinh viên Việt Cộng hoạt động trong phong trào svhs tranh đấu trước 1975 đã nhận xét: ‘Trong những ngày đầu giải phóng, người ta chia cách mạng ra thành nhiều loại: Cán bộ A là người ở miền Bắc vô, cán bộ B là người ở rừng về và cán bộ tại chỗ là những người hoạt động nội thành’ (14).
Theo đó, sau khi Cộng Sản chiếm được miền Nam, Huỳnh Tấn Mẫm chỉ thuộc loại cán bộ xếp hạng C. Nhưng có thể là để tiếp tục lợi dụng tên tuổi Mẫm với ý đồ đánh lừa dư luận trong và ngoài nước trong buổi giao thời cho nên Cộng Sản đã cho Huỳnh Tấn Mẫm và Lê Văn Nuôi được làm đại biểu Quốc Hội Cộng Sản khoá VI. Thực ra, chính cái Quốc Hội của Cộng Sản đã là tổ chức hữu danh vô thực, là một phường tuồng thì một đại biểu thành viên của cái Quốc Hội ấy cũng chỉ là một tay diễn tuồng không hơn không kém.

Ngoài ra danh vị đại biểu Quốc Hội ra, Mẫm còn được giao cho vài hư vị khác nữa:
Năm 1976, Mẫm là Ủy viên Ban chấp hành Thành Đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Tp. HCM., Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Tp. HCM.

Thành Đoàn và Trung Ương Đoàn cũng cử Mẫm đi thăm một số nước. Chính trong những cuộc đi thăm các nước đã giúp cho Mẫm có tầm nhìn rộng hơn, những nhận xét cụ thể chính xác hơn về giấc mơ xã hội xã hội chủ nghĩa và giấc mơ thiên đàng Cộng Sản của mình. Mẫm đã bị những nhận xét ấy ‘đánh gục’. Anh ta đã tâm sự cùng bạn bè, đã dàn trải những u uẩn trên những trang báo, để rồi bị ‘xếp vào sổ đen’ đến nỗi không ngóc đầu lên được (15).

Năm 1977, từ Thành Đoàn Mẫm được điều về công tác ở Trung Ương Đoàn.

Niên khoá 1976 – 77, Mẫm trở lại trường học năm chót Y khoa, nhưng Trung ương Đoàn cử Mẫm đi tham dự Festival Thanh niên Thế giới tại Cuba năm 1976. Khi trở lại trường, Hiệu trưởng Trương Công Trung lấy cớ Mẫm ham làm chính trị nên đã không cho Mẫm thi tốt nghiệp.
Thực ra lúc này Mẫm bắt đầu bị trù ếm, lại xẩy ra vụ vợ của Mẫm bê bối tiền bạc càng làm cho anh ta mất uy tín. Mãi sau, nhờ sự can thiệp của một số viên chức cao cấp trong Bộ Y tế, Mẫm mới được thi tốt nghiệp. Bằng cấp kí ngày 27/02/1980 (16).

Năm 1978 – 1980, đi học trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội.

Năm 1980, lại được gửi đi làm nghiên cứu sinh 4 năm tại Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội tại Liên Xô. Năm 1984, tốt nghiệp với bằng Phó tiến sĩ Triết học.

Sau đó, Mẫm về nước công tác tại Trung Ương Đoàn với chức vụ Trưởng ban Mặt trận Thanh niên và Phó Tổng thư kí Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên VN. Trong thời gian này Mẫm cùng Lê Quang Vịnh (Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên VN) xin phép ra tờ Thanh Niên. Mãi năm 1986 mới xong thủ tục (Giấy phép xuất bản của Bộ Văn hóa mang số 1 XB-BC ngày 03/01/1986). Mẫm là Tổng Biên tập đầu tiên của tờ Thanh Niên.

Đến năm 1990, Mẫm mất chức Tổng biên tập. Mẫm cũng vừa xin được phép ra tờ Thanh Niên Chủ Nhật thì phải chuyển về làm ủy viên Ban Chấp hành Hội Chữ Thập Đỏ (Hội Hồng Thập Tự ), phụ trách Lực Lượng Thanh Thiếu Niên Xung Kích Chữ Thập Đỏ.

Mẫm phụ trách Phòng Khám Bệnh Miễn Phí và từ 1994 phụ trách Phòng Hiến Máu Nhân Đạo của Hội Chữ Thập Đỏ thành phố.

Sau khi nghỉ hưu vào tháng 3 năm 2004, Mẫm được ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp (nguyên Chủ tịch UBND Tp. HCM.), Chủ tịch Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo Tp. HCM. mời cộng tác. Ngày 25 tháng 11 năm 2005, Huỳnh Tấn Mẫm được giao cho phụ trách Chi hội Thiện Tâm chuyên trách kiếm tiền bạc để yểm trợ các trường hợp mổ tim cho bệnh nhân nghèo. Trụ sở của Chi hội Thiện Tâm đặt tại tư gia của anh ở số 290/12A Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, Tp. HCM. đối diện chùa Vĩnh Nghiêm.

Ngoài công việc từ thiện, Mẫm có phòng khám ở số 156 Cách Mạng Tháng 8, Phường 10, Quận 3. Chính Mẫm cho biết nghề của anh ta là chuyên ‘săn sóc da, điều trị mụn nam nữ’. Mẫm trả lời một kí giả phỏng vấn như sau: ‘Có người bảo tôi là bác sĩ chính trị làm tôi lo hết sức, nhưng tôi nghĩ có lẽ anh chị em đó chưa hiểu hết tôi. Thời gian tôi ở tù các bạn tôi đi học, làm sao tôi bắt kịp họ. Chính vì ý thức được điều này nên tôi tư vấn và điều trị bệnh theo sự hiểu biết và thực hành mà tôi biết được và đã trải qua, không làm gì ngoài sức của mình. Ví dụ tôi tư vấn và hướng dẫn chăm sóc da, điều trị mụn nam nữ ngoài thời gian làm việc từ thiện, như thế là đủ’(17).

NHẬN XÉT

Trở lên là cái nhìn tổng quát về lãnh tụ sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, một thời nghe theo Đảng tranh đấu sôi nổi và một thời bị trù ếm, bỏ rơi.

* Trước hết, xin mời đọc nhà văn Đào Hiếu, ngưòi bạn sinh viên tranh đấu năm xưa của Huỳnh Tấn Mẫm đã nhận xét về Mẫm: ‘Tội nghiệp cho anh Mẫm. Anh là người hiền lành, học giỏi, nhiệt tình… nhưng sau giải phóng vì đố kỵ, ganh ghét sự nổi tiếng của anh mà có người đã dìm anh khiến anh không ngóc đầu lên nổi. Tiếp theo là những rủi ro tiền bạc do bà vợ gây ra khiến anh tuột dốc. Hồi còn sinh viên tôi và anh ở chung phòng 4/6 Đại học xá Minh Mạng. Lúc ấy anh học phụ khoa (gynécologie) năm thứ tư, vào Đảng năm 1968. Năm 1970 anh nổi tiếng khắp thế giới nhờ vụ bắt bớ quy mô lớn mà tôi vừa thuật lại ở trên. Vai trò của anh lúc bấy giờ là vai trò công khai. Anh hoạt động cách mạng ở góc độ công khai có nghĩa là với bất cứ danh nghĩa nào: Phật giáo, Công giáo hay Lực lượng thứ Ba tuỳ theo sự chuyển biến của tình hình, tuỳ theo nhiệm vụ chính trị của từng lúc. Nhưng không hiểu sao có tin đồn là anh lừng khừng, không dứt khoát tư tưởng và người ta để anh ngồi chơi xơi nước. Cuối cùng anh bị đẩy đi Liên Xô học ba cái thứ vớ vẩn gì đó. Rồi anh về nước giữ chức Phó chủ tịch Hội Chữ Thập Đỏ TPHCM.

Còn bây giờ anh là bác sĩ khoa thẩm mỹ hình như có phòng mạch ở đâu đó trên đường Cách Mạng Tháng Tám. Có lẽ anh nghèo và trong sạch’(18).

Người đồng chí năm xưa của Mẫm nói Mẫm ‘không ngóc đầu lên nổi’ là vì bị ganh ghét về sự nổi tiếng của anh và vì vụ bê bối tiền bạc của bà vợ. Không sai, nhưng thiển nghĩ đó không phải là nguyên nhân chính, bởi vì ai cũng biết hầu như tất cả các đảng viên làm quan to quan nhỏ đều có ‘thành tích’ bẩn thỉu hơn nhiều! Còn sự nổi tiếng của Mẫm chỉ là hào quang bên ngoài, kì thực trong tổ chức Thành Đoàn Cộng Sản, trước và sau 30 tháng 4 năm 1975, Mẫm đóng vai một thành viên hoạt động nổi, vị trí là cấp thừa hành. Cấp chỉ huy có thực quyền chỉ đạo mọi hoạt động của Mẫm trước 30 tháng 4 năm 1975 vẫn nằm trong bí mật; sau khi chiếm xong miền Nam, họ xuất hiện và nắm giữ những vị trí then chốt đầy quyền lực. Nhân việc Mẫm và đồng bọn bị bắt trong ‘Vụ Mồng 10 tháng 3’, các lực lượng nội Thành của Cộng Sản nhận được lệnh phải thổi bùng lên một làn sóng đấu tranh sôi sục. Đợt đấu tranh này đã làm cho Mẫm trở thành nổi tiếng trong và ngoài nước. Tất cả đều nằm trong kế sách của cấp lãnh đạo Thành Đoàn dưới quyền điều động của Trung Ương Cục Miền Nam, nhằm kích động phong trào phản chiến, gây sức ép đòi Mỹ rút quân và chấm dứt can thiệp vào chiến tranh Việt Nam. Mẫm nổi tiếng là một thành công của kế sách chiến tranh tâm lí chính trị ấy thì không lẽ lại vì thế mà họ ‘đố kỵ, ganh ghét’ anh ta.

Thực ra, đối với Cộng Sản, lí do quan trọng nhất vẫn là vì tư tưởng. Đúng là tư tưởng của Mẫm có vấn đề. Một khi đã bị ghi nhận là ‘lừng khừng, không dứt khoát tư tưởng’ thì làm sao còn được tin tưởng cất nhắc lên những vị trí có thực quyền.

* Không là bạn bè của Mẫm cũng phải nhìn nhận anh ta vốn có nhiều ưu điểm: là một học sinh thông minh chăm chỉ, có thiên khiếu diễn xuất chứng tỏ anh là một người giầu cảm xúc và nhiệt tình trong công việc bình thường cũng như trong chiến đấu cho một lí tưởng.

* Chúng tôi đã có dịp đọc lời khai lúc đầu của Huỳnh Tấn Mẫm tại F5 thuộc Tổng Nha Cảnh sát Đô Thành (F5 doThiếu tá Dương Văn Chân phụ trách). Mẫm nhận chỉ là sinh viên tranh đấu vì độc lập dân tộc, vì tự do hạnh phúc, cơm no áo ấm cho đồng bào. Nếu không có lời khai của đồng bọn về Mẫm thì Mẫm đã có thể bảo vệ được bản thân, bảo toàn được an ninh tài liệu, an ninh cơ sở và an ninh nhân sự. Điều đó chứng tỏ Mẫm là một Đảng viên trung kiên, có lý tưởng và sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng.

Tiếc thay, Mẫm là chiến sĩ chiến đấu cho một lý tưởng không có thật.

Trong cuộc chiến Việt Nam, nhiều người trẻ, vì những hoàn cảnh riêng, đã đi theo Cộng Sản một cách rất tự nhiên, bởi vì tuổi trẻ chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm để hiểu nổi chủ nghĩa Cộng sản và bộ mặt thật của Đảng Cộng sản. Khi Cộng sản thắng lợi rồi, bộ mặt thật của họ mới hiện nguyên hình. Đến khi đó, một số người trẻ đầy nhiệt huyết năm xưa đã chiến đấu miệt mài mới vỡ lẽ ra rằng lý tưởng tốt đẹp vì dân vì nước vì cách mạng xã hội với những khẩu hiệu, những mỹ từ nay đã sụp đổ, đã bị phản bội. Tất cả những cái xấu xa, những tội ác mình hi sinh đấu tranh để loại bỏ nay chẳng cái nào bị loại bỏ trái lại còn bị chính quyền Cộng sản vi phạm tất cả gấp trăm gấp ngàn lần hơn.

Lúc này mới lộ diện ai là người có lý tưởng thật sự, ai là kẻ cách mạng nửa mùa, ai là kẻ phản bội cách mạng. Khi đã phá đổ hệ thống chính quyền cũ mà thấy rõ chính quyền mới không đem lại được điều gì tốt đẹp cho đất nước thì những người làm cách mạng thiệt sự phải tiếp tục làm cách mạng, tiếp tục chiến đấu. Trên thực tế, đa số những tên sinh viên học sinh tranh đấu năm xưa hiện nay đã chọn làm những con ‘giòi’, những ‘con ma vú dài’, những ‘ông quan cách mạng’, những tên ‘tư bản đỏ’, mặc kệ dân, mặc kệ nước (những từ trong ngoặc kép là những từ nhà văn Đào Hiếu xử dụng trong cuốn Lạc Đường của ông để chỉ những tên sinh viên học sinh ‘đồng chí’ cũ của ông trong phong trào svhs tranh đấu trước 1975).

Lý ra, kẻ phá đổ một công trình cũ mà không xây dựng được một công trình mới tốt đẹp hơn thì chỉ là kẻ phá hoại.

Có thể khẳng định Huỳnh Tấn Mẫm không thuộc loại thứ hai. Nhưng anh có thuộc loại thứ nhất, tức là anh có chọn lựa tiếp tục làm cách mạng không (cứ giả định là trước năm 1975 anh ta đi làm cách mạng)? Có tiếp tục chiến đấu chống bọn cầm quyền bất xứng không. Có tiếp tục tranh đấu cho độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho đồng bào không? Bởi vì hiện nay, những mục tiêu ấy còn trở thành khẩn thiết hơn hồi trước 1975 bội phần. Đâu là sự toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc? Đâu là đạo đức, danh dự, văn minh, văn hoá dân Việt? Đâu là cơm no áo ấm cho đồng bào? Đâu là quyền được nói lên tiếng nói xây dựng chân chính?

Rồi quốc nạn tham nhũng? Và sự băng hoại của nền giáo dục, v.v…..

Thiển nghĩ, sau 1975, nhiều SVHS tranh đấu trước 1975 dư sức nhận ra bộ mặt thật của CS, nhưng Mẫm là một trong rất ít trường hợp hiếm hoi đã dám có phản ứng, dù mới ở mức độ nhẹ nhàng nhất. Dưới ‘triều đại’ độc tài Đảng trị, bất cứ cá nhân nào, dù có công trạng, dám có phản ứng, dám không ‘nhất trí’, đương nhiên có nghĩa là dám từ chối ‘ngồi cùng bàn’, dám chấp nhận từ bỏ công danh sự nghiệp cùng tiền tài, bổng lộc.

Bạn bè của Mẫm nói ‘có tin đồn’ Mẫm ‘lừng khừng’ và ‘không dứt khoát tư tưởng’ là rất có ‘cơ sở’ vì ít ra đã ghi nhận được một số sự việc như sau:

- Thứ nhất là anh ta không được giao cho một vị trí nào có thực quyền, cuối cùng đã trở về ngành Y và tham gia công tác từ thiện.

– Thứ hai, như đã có đề cập tới trên đây, ngay sau thắng lợi 30 tháng năm 1975, Mẫm được cử đi tham dự Festival ở vài nước Cộng Sản như Cuba, Bắc Hàn. Khi trở về, ‘Anh đã viết một bài báo nói về bóng tối, sự lạnh lẽo thiếu vắng nụ cười trên môi người dân Bắc Hàn. Huỳnh Tấn Mẫm đã tâm sự nhiều với bạn bè trước khi anh bị cách chức Tổng Biên Tập báo Thanh Niên và sự nghiệp của anh đã xếp vào sổ đen’ (Phong Thu. Xin xem chú thích số 15).

Nghĩa là Mẫm đã hiểu ra, đã ‘vỡ mộng’về cái gọi là thiên đường Cộng Sản, nhưng ngoài việc ‘viết một bài báo ra, anh chỉ biết ‘tâm sự’ với bạn bè trong chỗ riêng tư về những nhận xét và cảm nghĩ của mình.
– Thứ ba, sau này, khi ký giả Thượng Tùng hỏi ‘Đến giờ này, liệu còn điều gì khiến anh cảm thấy day dứt’? Mẫm trả lời như sau: ‘Giai đoạn tham gia phong trào HSSV, tôi được bà con tin yêu, đùm bọc. Chỗ nào HSSV đấu tranh là chỗ đó có ngay một kho lương thực và thuốc men. Vậy mà đến giờ tôi chưa làm được gì cho bà con. Thời kỳ phát động phong trào đi kinh tế mới, cũng vì tin yêu mà bà con hăng hái lên đường, nhưng cách làm của chúng ta lúc ấy như bỏ rơi họ. Tôi nghĩ những nhà hoạch định chính sách cần hết sức thận trọng khi ban hành các chính sách liên quan đến người nghèo. Tôi có cảm giác nhiều khi chúng ta hơi chủ quan ở khâu này. Chẳng hạn như ban hành quyết định trước rồi mới chuyển cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đề nghị góp ý là cách làm ngược. Cần tôn trọng vai trò phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Phát triển mà khoảng cách giàu nghèo ngày càng dãn rộng thì thật là đáng lo ngại. Vấn đề tái định cư tại Thủ Thiêm và nhiều nơi khác gây phẫn nộ trong quần chúng nghèo. Trước khi quyết định giải tỏa phải chuẩn bị nơi tái định cư trước, đền bù thỏa đáng cho người ta. Cùng một khu đất nhưng giá trước và sau đền bù có khi chênh lệch hàng chục lần. Làm vậy chẳng khác gì giành miếng đất của người nghèo chia cho người giàu, (19).

Qua câu trả lời có vẻ nhẹ nhàng, kín đáo này, Mẫm không dám động chạm gì tới chủ nghĩa, đến chế độ, đến các lãnh tụ cấp cao, nhưng anh ta đã phê phán một số việc làm tắc trách của chính quyền Thành phố.

Hơn thế nữa, theo tác giả Nguyễn Văn Lục trong bài viết Nhật Ký Của Im Lặng (DCVOnline.net) thì Mẫm đã từng ‘bị quản chế’: ‘…Huỳnh Tấn Mẫm bị quản chế cùng với những người như Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, vì cái tội đã tiếp xúc với báo chí ngoại quốc, hay phê bình và đòi hỏi cải tổ nhanh guồng máy kinh tế và chính trị. Những vụ quản chế này không được loan báo công khai và nơi quản chế cũng vậy…’.

Nói Mẫm từng bị quản chế có thêm phần khả tín do 2 nguồn tin sau đây. Một người bạn của chúng tôi (yêu cầu dấu tên), hiện cư ngụ tại Orange County, năm 1990, sau khi đi tù cải tạo về ít lâu đã bị An ninh Nội chính kêu lên chụp cho một cái mũ (để thăm dò) rằng anh ta đã ‘quan hệ với Huỳnh Tấn Mẫm trong chủ trương cải cách chính trị cho Việt Nam’. Người bạn khác, tù cải tạo 17 năm, cho biết: khoảng năm 1991, một người bạn tranh đấu của Huỳnh Tấn Mẫm lên trại Z30D (căn cứ 5 Rừng Lá ) để thăm nuôi vợ của Mẫm đang bị tù tại đây. Được hỏi tại sao lại đi thăm vợ của Mẫm thay cho Mẫm, người bạn ấy nói vì hiện Mẫm ‘đang trên lò lửa’. Anh ta giải thích Mẫm là một trong số những trí thức miền Nam ủng hộ chủ trương đổi mới ‘cả hai chân’của ông Trần Xuân Bách, tức đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Ông Trần Xuân Bách là ủy viên Bộ chính trị từ 1986 tới 1990 thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Cũng theo người bạn của Mẫm, vì ủng hộ ông Trần Xuân Bách mà Mẫm mất chức Tổng biên tập tờ Thanh Niên (1990) và vợ Mẫm bị bắt vì bị quy kết ‘úp hụi’ trị giá hàng trăm cây vàng. Nguời ta làm thế để dằn mặt Mẫm. (20)

Tư tưởng của Mẫm như thế là ‘có vấn đề’, hậu quả là Mẫm bị làm khó dễ khi trở lại Trường Y, bị cho đi ‘học ba cái vớ vẩn gì đó’, bị để ‘ngồi chơi xơi nước’, và cuối cùng là bị đá bật ra khỏi mọi cơ hội tham chính. Mẫm đã chỉ có thể cùng chiến đấu chứ không thể ngồi cùng bàn với bọn Cộng Sản cầm quyền độc tài và bất xứng khi đã thắng lợi.

Mặc dù ghi nhận như thế, Huỳnh Tấn Mẫm vẫn chưa bao giờ nhận là mình ‘Lạc Đường’ như nhà văn Đào Hiếu (21) hay nói lên lời hối hận như cha con Cụ Vũ Đình Huỳnh (22) hoặc nhận là đã chọn lầm đường như Cụ Nguyễn Hộ (23)…vì đã góp công khuyển mã giúp cho bọn buôn dân bán nước nắm trọn quyền hành để rồi chúng biến Đất Nước trở thành hèn yếu như ngày nay.

Có thể hiểu được phần nào cho trường hợp của Mẫm không? Phần vì anh ta đã trót được đưa lên quá cao, đã trót cỡi lưng cọp, không dễ gì leo xuống mà không bị cọp ăn thịt. Cái gương Bs. Dương Quỳnh Hoa, Gs. Nguyễn Ngọc Lan, Lm. Chân Tín còn rành rành ra đó…(24). Hơn nữa, đã qua rồi cái thời sinh viên tràn đầy nhiệt huyết, say mê lí tưởng cách mạng, nay mới vỡ lẽ ra lý tưởng Cộng Sản chỉ là hão huyền, chính trị theo kiểu Cộng Sản là thủ đoạn là tàn độc là bẩn thỉu. Càng hiểu thêm Cộng Sản, Mẫm càng ý thức rằng, muốn sống còn trong chế độ CS, dù là cấp cao như cựu Chủ tịch Tôn Đức Thắng hay cao ngạo như nhà văn Nguyễn Tuân cũng phải biết sợ (25), cũng phải biết ăn ‘Bánh Vẽ’ như nhà thơ Chế Lan Viên (26) hay là phải trở thành ‘Một thằng Hèn’ như nhạc sĩ Tô Hải…(27).

Ngoài nhận xét về những động thái chính trị của Huỳnh Tấn Mẫm như trên, nếu thật sự, trong khi đa số những tên sinh viên học sinh tranh đấu trước 1975 nay đã trở thành những con ‘giòi’, những ‘ông quan cách mạng’, những tên ‘tư bản đỏ’ mà Mẫm ‘vẫn nghèo và trong sạch’ (hiểu theo nghĩa đồng tiền Mẫm làm ra không phải là đồng tiền bẩn thỉu, không phải là đồng tiền do bóp cổ dân mà có) và tận tâm làm việc phước thiện thì có thể cho anh ta một điểm son về tư cách và tác phong không?


Ghi chú:: Dương văn Đầy sau này được chỗ béo bở làm Tổng giám đốc Saigon Tourist, trông nom rất nhiều khách sạn quốc doanh. Nghe nói ăn nhậu quá nên cách đây 10 năm tẻo vì heart attack hoặc stroke.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét