Ba yếu tố quan trọng trong việc đối phó hữu hiệu với đại dịch là khả năng của nhà nước, lòng tin của xã hội và lãnh đạo (Francis Fukuyama).
(Bản dịch bài “The Pandemic and Political Order” của Francis Fukuyama, đăng trên tạp chí Foreign Affairs số Jul/Aug 2020. Francis Fukuyama là một học giả về khoa chính trị học, kinh tế chính trị học và là một cây bút thường xuyên trên các tạp chí kinh tế và chính trị. Hiện nay ông là Olivier Nomellini Senior Fellow tại viện nghiên cứu Freeman Spogli Institute for International Studies, đại học Stanford. Ông là tác giả cuốn sách “Identity: The Demand for Dignity and the Politics of Resentment.
Cuộc khủng hoảng lớn nào cũng kèm theo những hệ quả lớn, thường là khó thấy trước được. Cuộc Đại Khủng Hoảng thập niên 1930s đã kích thích chủ nghĩa cô lập, chủ nghĩa dân tôc, chủ nghĩa phát xít và Thế Chiến 2 nhưng đồng thời cũng dẫn đến chính sách Kinh Tế Mới, sự trỗi dậy của nước Mỹ như một siêu cường thế giới và cuối cùng là việc phá bỏ chế độ thực dân trên toàn thế giới. Cuộc tấn công 9/11 đã gây ra hai cuộc chiến mà nước Mỹ đã can thiệp thất bại, sự trỗi dậy của Iran và những dạng Hồi Giáo cực đoan. Cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008 làm nổi lên phong trào dân túy chống lại những định chế cũ, làm thay đổi nhiều lãnh đạo trên thế giới. Các sử gia sau này sẽ truy ra những hệ quả to lớn từ đại dịch gây ra bởi con vi trùng corona chủng mới này. Nhưng với chúng ta, sự thách đố là hình dung được những hệ quả này, ngay từ thời điểm này.
Lý do tại sao cho đến nay vài quốc gia đối phó với đại dịch hữu hiệu hơn những quốc gia khác thì khá rõ và chúng ta cũng có lý do để tin là sự đối phó hữu hiệu này sẽ tiếp tục như vậy. Đó không phải là vấn đề thể chế chính trị. Vài thể chế dân chủ đối phó cơn dịch tốt trong khi các thể chế dân chủ khác lại tệ hại, và ngược lại. Điều này cũng đúng với các chế độ độc tài chuyên chế. Ba yếu tố quan trọng trong việc đối phó hữu hiệu với đại dịch là khả năng của nhà nước, lòng tin của xã hội và lãnh đạo. Quốc gia nào có cả ba yếu tố này: guồng máy nhà nước vận hành tốt đẹp, một chính phủ mà người dân tin tưởng và lắng nghe , và lãnh đạo quốc gia có năng lực thì sẽ đối phó đại dịch rất hữu hiệu, giới hạn được thiệt hại phải chịu đựng. Những quốc gia nào có bộ máy nhà nước vận hành tồi tệ, xã hội phân rã và lãnh đạo yếu kém thì đối phó cơn dịch cũng tồi tệ, làm sinh mạng người dân và kinh tế của họ chịu thiệt hại nặng nề.
Càng hiểu nhiều về COVID-19, đại dịch gây ra bởi con vi-rút corona chủng mới này, ta lại càng thấy rằng cuộc khủng hoảng này sẽ kéo dài, tính bằng năm chứ không bằng quý. Con vi-rút này có vẻ làm chết người ít hơn là như người ta sợ lúc ban đầu nhưng nó lại cực kỳ lây lan và thường lây bệnh khi người bị nhiễm chưa có triệu chứng biểu lộ ra ngoài. Ebola gây tử suất rất cao nhưng khó nhiễm bệnh, vì nạn nhân thường chết mau chóng trước khi họ có thể lây bệnh cho người khác. Ngược lại COVID-19 làm người ta coi thường nó lúc đầu thay vì chặn từ gốc, khiến cho bệnh lây lan toàn cầu gây ra chết chóc nhiều như vậy. Sẽ không có một thời điếm nào mà mọi quốc gia trên thế giới có thể tuyên bố họ chién thắng được cơn dịch. Thay vào đó các nền kinh tế sẽ mở cửa chậm chạp, dò dẫm từng bước một, và sẽ khựng lại nhiều lần bởi những đợt nhiễm bệnh mới. Sự hy vọng về sự phục hồi kinh tế kiểu chữ V thì quá lạc quan. Nhiều khả năng xẩy ra hơn là sự phục hồi hình chữ L với phần nằm ngang kéo dài rồi mới cong lên hay một loạt những chữ W nối nhau. Kinh tế thế giới sẽ không sớm trở lại thời tiền COVID-19.
Về khía cạnh kinh tế, một cuộc khủng hoảng kéo dài sẽ làm nhiều thương mại vỡ nợ và hậu quả sẽ khốc liệt cho một số công nghiệp như thương xá, chuỗi bán lẻ hay du lịch. Mức độ tập trung thị trường ở Mỹ vốn đã tăng lên nhanh chóng vài thập niên gần đây, thì nay đại dịch sẽ thúc đẩy khuynh hướng này nhanh hơn nữa. Chỉ có những đại công ty với tiền đầy túi mới thoát qua được cơn bão. Những anh khổng lồ về kỹ thuật sẽ được lợi nhất: tương tác bằng kỹ thuật số sẽ càng ngày càng quan trọng.
Hệ quả về chính trị còn đáng kể hơn nữa. Chính quyền có thể cổ động, tuyên dương những người dân làm những hành động anh hùng giúp đỡ người khác trong một thời gian nào đó nhưng không phải là lúc nào cũng được thế. Một đại dịch kéo dài, cộng với thất nghiệp trầm trọng và gánh nợ nần lớn chưa từng có, sẽ tạo ra những áp lực, biến thành sự chống đối về chính trị, chống đối ai thì còn chưa rõ.
Quyền lực thế giới sẽ tiếp tục dịch chuyển về phía đông, vì Đông Á đã kiểm soát cơn dịch tốt hơn Âu Châu hay Mỹ. Mặc dầu cơn dịch khởi đầu từ Trung Quốc và Bắc Kinh đã che dấu cơn dịch và làm nó bành trường thay vì chận đứng, Trung Quốc có vẻ hưởng lợi từ đại dịch, ít nhất là so với các nước khác. Như ta đã thấy, nhiều chính phủ khác lúc đầu cũng phản ứng tồi tệ, rồi cũng cố gắng che giấu nhưng lộ liễu hơn và gây ra những hậu quả chết người hơn cho công dân của họ. Ít ra là Bắc Kinh có thế kiểm soát được tình hình, tiếp tục con đường vực dậy được nền kinh tế để nó vận hành nhanh chóng và vững chắc trở lại.
Ngược lại, nước Mỹ đã đối phó đại dịch vụng về và thấy uy tín quốc gia sụt giảm trầm trọng. Nước Mỹ có tiềm năng quốc gia to lớn, đã đối phó với các đại dịch trước cực kỳ hữu hiệu, thì nay với xã hội phân rã cao độ và một lãnh tụ yếu kém, đã làm quốc gia không còn vận hành hữu hiệu nữa. Một tổng thống chỉ khơi dậy chia rẽ thay vì cổ súy đoàn kết, chính trị hóa việc phân phối vật phẩm cứu trợ, đấy trách nhiệm về phía các thống đốc tiểu bang, khiến họ phải ra những quyết định quan trọng nhưng đồng thới lại xúi dục người dân biểu tình chống lại thống đốc trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và tấn công các định chế quốc tê thay vì gìn giữ các định chế này. Cả thế giới xem TV, tròn xoe mắt, và Trung Quốc không chậm trễ gì trong việc so sánh rõ hai cách đáp ứng đại dịch này, của họ và của nước Mỹ.
Trong những năm sắp tới, đại dịch này có thể dẫn đến việc nước Mỹ suy yếu hơn, tiếp tục bào mòn trật tự tự do khai phóng của thế giới, đưa đến sự trỗi dậy của phát xít toàn cầu. Nhưng nó cũng có thể dẫn đến việc nền dân chủ tự do khai phóng hồi sinh lại, một hệ thống mà những người hồ nghi nó phải nhiều lần xét lại sự hồ nghi, sau những lần hồi sinh ngoạn mục của hệ thống. Có thể nơi này của thế giới sẽ có viễn cảnh này và nơi khác viễn cảnh khác. Rất tiếc là trừ trường hợp những khuynh hướng hiện nay thay đổi đáng kể, búc tranh tổng quát khá ảm đạm.
Viễn cảnh Phát Xít trỗi dậy
Cũng không khó để hình dung ra những điều bi quan sẽ xẩy ra. Chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa cô lập, sự kỳ thị người nước khác và sự tấn công vào trật tự tự do khai phóng của thế giới đã gia tăng nhiều năm nay. Đại dịch này sẽ chỉ làm nó tăng nhanh hơn. Chính quyền ở Hungary và Philippines đã dùng đại dịch này để tự cho họ quyền lực đặc biệt vốn chỉ áp dụng lúc khẩn cấp, và làm chính quyền tách rời hơn nữa khỏi nền dân chủ. Nhiều quốc gia khác, trong đó có Trung Quốc, El Salvador và Uganda, đã thi hành những biện pháp tương tự. Hàng rào ngăn cản con người đi lại xuất hiện khắp nơi, ngay cả ở trung tâm Âu Châu. Thay vì hợp tác với nhau vì lợi ích chung, các quốc gia lại có những chính sách vị kỷ, kèn cựa nhau và làm những đối thủ trở thành con dê tế thần vê phương diện chính trị cho những thất bại của chính họ.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc sẽ làm tăng mâu thuẫn quốc tế. Nhiều lãnh tụ sẽ thấy việc kình địch với ngoại quốc là một cách hữu hiêu để phân tán chú ý về chính trị trong nước. Họ cũng có thể lợi dụng sự yếu đuối hay chia trí của đối thủ và dùng đại dịch này đế làm mất ổn định môt vài mục tiêu đã nhắm trước hay tạo ra những việc đã rồi. Tuy nhiên, nếu xét khuynh hướng của sức mạnh hạt nhân được cân bằng và những thách đố chung với mọi siêu cường, bất ổn quốc tế sẽ ít xẩy ra hơn là bất ổn trong mỗi nước.
Những quốc gia nghèo, với các thành phố chật ních người và hệ thống y tế công cộng yếu kém sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất. Không những việc giãn cách xã hội, ngay cả những vệ sinh đơn giản nhất như là việc rửa tay cũng sẽ cực kỳ khó khăn cho những quốc gia mà trong đó rất nhiều người còn chưa có nước sạch. Vì những nguyên nhân lâu đời, vì những xung đột giữa các cộng đồng, vì thiếu chất keo kết dính xã hội hay đơn giản hơn, vì sự lãnh đạo yếu kém, nhiều chính quyền làm cho tình hình tệ hơn thay vì cải thiện nó. Thí dụ Ấn Độ, khi đóng cửa một cách đột ngột mà không nghĩ kỹ đến hậu quả cho hàng chục triệu người lao động nhập cư đang chen chúc sống trong những thành phố lớn, họ lại càng làm tăng sự tác hại của đại dịch. Nhiều người phải về thôn quê sống, lại làm lây lan nhiều hơn. Một khi chính quyền Ấn Độ thay đổi biện pháp và bắt đầu hạn chế người dân đi lại, rất nhiều người lại bị kẹt giữa những thành phố lớn, không việc làm, không nơi ở và không có sự chăm sóc về y tế hay về các mặt khác.
Việc con người dịch chuyển vì thời tiết thay đổi vốn đã là một cuộc khủng hoảng đang sôi sục trong khối các quốc gia đang phát triển. Đại dịch này sẽ làm cơn khủng hoảng này trầm trọng hơn, có thế đưa một số lớn dân chúng ở những quốc gia này đến mức sống với tiêu chuẩn tối thiểu. Và đại dịch này đã dập tắt hy vọng của hàng trăm triệu người trong những quốc gia nghèo đói vốn hưởng được thành quả tử hai thập niên phát triển kinh tế liên tục. Khi sự phẫn uất của dân chúng tăng cao và khi hy vọng của số đông bị dập tắt, ai cũng biết đó là điều kiện chín muồi cho cách mạng nổ ra. Những người thất vọng sẽ tìm cách chạy ra khỏi nước, các lãnh tụ mị dân sẽ khai thác thêm tình hình để nắm quyền, các chính trị gia tham ô sẽ lợi dụng cơ hội vơ vét tất cả những gì có thể vơ vét được. Nhiều chính phủ sẽ đàn áp hơn hay sẽ sụp đổ. Sẽ có một làn sóng mới những người di dân từ khối các quốc gia đang phát triển đến các nước giàu có. Chỉ có điều lần này họ sẽ bị chống đối hơn, ít được cảm thông hơn vì người ta sợ rằng họ sẽ mang vào bệnh tật và bất ổn. Và người ta có lý do để sợ như vậy.
Cuối cùng, càng nhìn xa hơn thì ta càng có thể thấy những con “thiên nga đen” hơn. Những đại dịch trong quá khứ đã làm nẩy ra những viễn tượng tận thế, những giáo phái cuồng tín và cả những tôn giáo mới trong những lúc căng thẳng gây ra bởi những khó khăn kéo dài. Phát Xít, mà ta có thể coi như một loại giáo phái cuồng tín, xuất phát từ những bạo động và mất nơi cư trú gây ra bởi thế chiến thứ nhất và thời gian sau đó. Thuyết âm mưu sẽ nở rộ trong những nơi như vùng Trung Đông, khi con người bình thường cảm thấy bất lực hay mất niềm tin. Ngày nay, những thuyết âm mưu cũng đã phát tán rộng rãi trong những quốc gia giầu có, một phần vì môi trường truyền thông bị internet và mạng xã hội làm mất vị thế cũ. Khi những tác họa của đại dịch kéo dài thì nó lại càng cung cấp thêm chất liệu cho những tay lãnh tụ dân túy khai thác.
Viễn cảnh dân chủ phục sinh
Tuy nhiên, cũng giống như cuộc Đại Khủng Hoảng thập niên 1930s không chỉ sinh ra Phát Xít mà còn cũng cố nên dân chủ tự do khai phóng, đại dịch này cũng có thể nẩy những kết quả chính trị tích cực. Thường thì phải có những lực bên ngoài rất mạnh mới bẻ gẫy được một hệ thống chính trị sơ cứng, ngõ hầu tạo điều kiện cho những cải cách cấu trúc chính ra phải làm từ lâu. Chuyện này có thể xẩy ra lần nữa sau đại dịch, ít ra là ở một vài nơi trên thế giới.
Khi đối phó với đại dịch, thực tế cho thấy là tính chuyên nghiệp của chuyên viên sẽ được đánh giá cao còn những yếu kém và chính trị mị dân thì sẽ phô bày ra rõ hơn. Cuối cùng điều này sẽ làm việc chọn lựa của người dân dễ dàng hơn, thưởng cho những chính trị gia và chính quyền hữu hiệu và trừng phạt những kẻ yếu kém. Jair Bolsonaro của Brazil chẳng hạn, vốn đã tấn công và làm suy yếu những dịnh chế dân chủ trong những năm gần đây, đầu tiên tưởng có thể coi nhẹ và lướt qua được trận đại dịch này, bây giờ đang đối phó lạng quang với một đại họa y tế. Vladimir Putin của Nga đầu tiên cũng cố ra vẻ coi thường đại dịch, sau đó lại bảo Nga đã kiểm soát được tình hình và giờ phải đổi giọng lần nữa khi COVID-19 lây lan toàn nước Nga. Tính hợp pháp của triều đại Putin vốn đã lung lay trước đại dịch nay lại càng lung lay hơn.
Đại dịch đã soi rọi lên các định chế khắp nơi, lộ rõ ra những khiếm khuyết hay yếu kém. Mức cách biệt giữa người, hay quốc gia, giàu có và nghèo đói lại càng tăng hơn khi tình hình kinh tế khựng lại lâu dài. Nhưng cùng với vấn đề, cơn khủng hoảng cũng làm lộ ra khả năng của chinh phủ đưa ra những giải pháp, dựa vào tài nguyên của tập thể trong quá trình đối phó đại dịch. Cảm giác “tất cả phải ở một mình” khi kéo dài lâu có thể thúc đẩy sự đoàn kết xã hội và về lâu về dài hướng đưa đến việc phát triển các biện pháp bảo vệ xã hội. Cũng giống như những đau khổ tổn hại trên toàn quốc do Thế chiên 1 và cuộc Đại Khủng Hoảng gây ra, đã kích thích sự phát triển của hệ thống an sinh trong những năm 1920s và 1930s.
Điều này nếu xẩy ra thì ta có thể xếp xó những dạng cực đoan nhất của chủ nghĩa tân tự do, lý tưởng về thị trường tự do do những kinh tế gia của đại học Chicago như Gary Becker, Milton Friedman, and George Stigler đề xuất ra. Trong những năm 1980s, học thuyết kinh tế của đại học Chicago đã được dùng để biện minh, về khía cạnh trí thức, cho những chính sách của TT Ronald Reagan và thủ Tướng Margaret thatcher, vốn là những người coi những chính phủ lớn, ôm đồm là chướng ngại vật cho phát triển kinh tế và tiến bộ nhân loại. Lúc đó có nhiều lý do chính đáng để cắt giảm nhiều luật lệ chính phủ cũng như công sản. Những lập luận này càng ngày cứng ngắc, đóng khuôn lại thành ra một thứ tôn giáo “tự do tuyệt đối”, bao gồm trong đó sự thù nghịch với những hoạt động của nhà nước và sinh ra giới trí thức bảo thủ, đặc biệt là ở Mỹ.
Nay ta đã thấy được vài trò quan trọng của nhà nước trong việc làm chậm đại dịch lại, thật khó mà lý luân, như Reagan trong bài diễn văn nhậm chức lần đầu tiên năm 1981, là “chính phủ không phải là giải pháp cho vấn đề của chúng ta mà chính phủ chính là vấn đề”. Cũng như bây giờ không ai có thể biện minh rằng lãnh cực tư nhân và từ thiện có thế thay thế cho một guồng máy nhà nước hữu hiệu trong việc đối phó với tình hình khẩn cấp của quốc gia. Tháng 04/2020, Jack Dorsay, CEO của Twiiter loan báo anh ta sẽ đóng góp 1 tỉ cho quỹ cứu trợ COVID-19, một hành động từ thiện phi thường. Nhưng cùng tháng đó, Quốc Hội Mỹ phải để ra 2300 tỉ để cứu trợ những doanh nghiệp và cá nhân chịu ảnh hưởng bởi đại dịch. Tư tưởng chống đôi nhà nước vẫn có thể thấy được ở những người biểu tình chống lại việc “đóng cửa”, nhưng các thống kê thăm dò dân ý cho thấy đại đa số dân Mỹ tin vào lời khuyên của các chuyên gia y tế chính phủ trong việc đối phó với đại dịch này. Điều này có thế làm tăng sự ủng hộ của người dân vào sự can thiệp của chính phủ khi đối phó với một vấn đề xã hội trọng đại khác.
Và cũng có thể là đại dịch sẽ làm hồi sinh lại những nỗ lực hợp tác quốc tế. Trong khi lãnh đạo cấp quốc gia có thể chỉ tay đổ tội nhau, các khoa học gia và giới chức chuyên gia y tế công cộng có thể thắt chặt sự liên lạc và hành động cùng nhau. Nếu việc bãi bỏ sự hợp tác quốc tế dẫn đến thảm họa và bị đánh giá như một thất bại, thời kỳ hậu đại dịch có thế đưa một luồng gió mới vào việc khẳng định hợp tác đa quốc gia sẽ tốt đẹp cho những ích lợi chung.
Đừng hy vọng nhiều quá
Đại dịch này cho đến nay cũng là một thử nghiệm chính trị toàn cầu. Những quốc gia với chính phủ hợp pháp, có năng lực thì lướt qua đại dịch tương đối dễ dàng và có thể tiến hành những cải tổ làm cho chính quyền mạnh hơn, chịu được những thử thách hơn và trong tương lai điều hành tốt đẹp hơn. Những quốc gia mà khả năng nhà nước yếu kém hay lãnh đạo tồi tệ thì sẽ có vấn đế, đưa đến việc kinh tế khựng lại, nếu không phải là nghèo đi hay bất ổn thêm. Vấn đề là nhóm nước thứ hai nhiều hơn nhóm nước thứ nhất rất nhiều.
Không may là sự thử nghiệm chính trị này căng đến nỗi ít có quốc gia nào vượt qua được. Để đối phó với những giai đoạn đầu của đại dịch một cách tốt đẹp, các quốc gia không những cần có một bộ máy nhà nước hoạt động hữu hiệu và tài nguyên dồi dào nhưng cũng cần có đồng thuận xã hội và những nhà lãnh đạo có khả năng kêu gợi được lòng tin của người dân. Đáp ứng được điều này có thể kể đến Nam Hàn khi trao việc đối phó với cơn đại dịch cho một guồng máy kỹ trị, quản lý y tế chuyên nghiệp hay nước Đức của Angela Merkel. Nhưng nhóm nước thứ hai đông hơn nhiều, với những chính phủ thất bại về mặt này hay mặt kia. Vì giai đoạn tiếp theo của trận đại dịch cũng sẽ không dễ đối phó, những khuynh hướng này sẽ tiếp tục, càng làm cho người ta khó mà lạc quan trên bình diện thế giới được.
Một lý do nữa để bi quan là những viễn cảnh tốt đẹp đòi hỏi phải có những trao đổi ý kiến về các chính sách công hợp lý và việc học hỏi lẫn nhau. Tuy nhiên ngày nay mối liên hệ giữa giới chuyên gia kỹ trị và các chính sách công không còn chặt chẽ như trong quá khứ, khi giới tinh hoa có nhiều tiếng nói hơn. Cách mạng kỹ thuật số đã làm cho giới cầm quyền phải dân chủ hơn, bình dân hơn, làm mờ nhạt đi tôn ti trật tự dựa theo khả năng suy nghĩ và các tôn ti trật tự khác. Các quyết định chính trị thường bị ảnh hưởng bởi những kẻ to miệng nhất. Đây không phải là môi trường tốt cho việc cùng nhau tự đánh giá một cách hiệu qủa. Những chính trị bất hợp lý có thê tồn tại lâu hơn bình thường.
Với vị trí siêu cường, biến số lớn nhất là nước Mỹ. Điều không may nhất là khi đại dịch bắt đầu, quốc gia có một lãnh đạo, đứng đầu quốc gia nhưng thiếu khả năng và gây chia rẽ nhất trong lịch sử cận đại. Cách điều hành quốc gia của ông ta không thay đổi dù dưới bất cứ áp lực nào. Vì ông ta gây chiến trong suốt nhiệm kỳ với hệ thống nhà nước do chính ông ta lãnh đạo, ông ta không thể triển khai nó có hiệu quả khi tình hình đòi hỏi. Sau khi nhận định rằng chống đối và hận thù sẽ giúp ông ta nhiều về mặt chính trị hơn là đoàn kết quốc gia, ông ta đã dùng đại dịch này để gây sự và gia tăng chia rẽ xã hội. Việc nước Mỹ đối phó với đại dịch khá tệ hại có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là nước Mỹ có một lãnh đạo thất bại trong việc lãnh đạo.
Nếu Trump được bầu làm tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa, cơ hội cho sự trỗi dậy của nền dân chủ hay của trật tự tư do khai phóng trên thế giới coi như xếp lại. Tuy nhiên, dù kết quả bầu cử thế nào đi nữa, sự chia rẽ sâu sắc của nước Mỹ vẫn còn đó. Tổ chức bầu cử trong đại dịch sẽ khó khăn và sẽ tạo cơ hội cho phe thua không chấp nhận kết quả bầu cử, thách đó tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Ngay cả khi đảng Dân Chủ nắm được cả Nhà Trằng và lưỡng viện Quốc Hội, họ cũng thừa hưởng một quốc gia thương tật nặng nề. Muốn hành động gì cũng phải đương đầu với một núi nợ và sự chống đối đến cùng của phe đốí lập còn lại. Các định chế quốc gia và quốc tế sẽ bị yếu đi, co lại sau nhiều năm bị lạm dụng. Sẽ mất nhiều năm để xây dựng lại những định chế này, nếu có thể xây dựng được.
Giai đoạn nguy kịch nhất, bi thảm nhất của đại dịch đã qua, thế giới đang bước vào một giai đoan khó khăn lâu dài. Cuối cùng thế giới cũng sẽ bước qua giai đoạn này thôi, có nước sớm hơn có nước chậm hơn. Những xung đột quân sự thế giới chắc không xẩy ra. Trong quá khứ. chế độ dân chủ, chủ nghĩa tư bản và nước Mỹ đều chứng tỏ có khả năng hồi sinh, biến cải, thay đổi lại theo tình hình mới. Nhưng nếu thế, giờ đây một lần nữa người ta phải kéo được một con thỏ ra khỏi nón.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét