khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

ÐỐNG ÐA MÙA XUÂN -- Nhà văn Hoàng Hải Thủy




                                           


Tượng Vua Quang Trung ở Sài Gòn.

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương…

Bà Huyện Thanh Quan
 
Ðọc “Thơ Chữ Hán” của Nguyễn Du tôi có một thắc mắc:
 
Nhà thơ lớn của chúng ta chứng kiến trận chiến thắng Ðống Ða vang danh trong lịch sử. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ thống lĩnh quân dân ta đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh năm Kỷ Dậu — 1789 Dương lịch. Thi sĩ Tố Như ra đời năm 1765, ông 23 tuổi năm 1788. Ông là một chứng nhân của trận chiến thắng oanh liệt này. Nhưng ông không làm qua một bài thơ nào về trận chiến thắng của dân tộc, ông không nhắc một lời về Vua Quang Trung tuy ông làm thật nhiều thơ, những bài thơ thật Hay, thật Thơ, thật cảm động về những nhân vật lịch sử Trung Quốc: Khổng Minh Gia Cát Lượng, Mã Viện, Nhạc Phi, Tần Cối, Văn Thiên Tường, Ðỗ Phủ.. vv…

Không chỉ riêng Nguyễn Du, những nhà thơ sống cùng thời với thi sĩ, những người cùng chứng kiến trận đánh Ðống Ða lịch sử với ông, cùng sống qua thời kỳ cầm quyền ngắn ngủi rồi suy bại thảm thê của Nhà Tây Sơn, những thi sĩ thời ấy như Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhiệm .. cũng không một ông nào làm một bài thơ nhỏ về Vua Quang Trung, về chiến thắng Ðống Ða. Văn học ta thời Vua Quang Trung và những năm sau đó không có một bài thơ — chỉ một bài thôi — ca tụng chiến thắng Ðống Ða, ta không có một bài thơ nào ca tụng Vua Quang Trung Nguyễn Huệ!

Ta có thể giải thích nguyên nhân sự không lên tiếng, thái độ của giới nhân sĩ Bắc Hà cố tình không biết, không nhắc đến Vua Quang Trung cùng chiến thắng lịch sử Ðống Ða là vì  nhân sĩ Bắc Hà vẫn trung thành với Nhà Lê — trung thành với Nhà Lê gần như đồng nghĩa trung thành với Nhà Trịnh — Nhà Tây Sơn diệt Nhà Lê, Nhà Trịnh nên Nhà Tây Sơn bị nhân sĩ Bắc Hà coi như kẻ thù. Nhà Tây Sơn là Vua Quang Trung, thù hận nhà Tây Sơn là thù hận Vua Quang Trung.

Nhưng không phải tất cả những nhân sĩ Bắc Hà đều như các ông Nguyễn Du, Phan huy Ích, Ngô thời Nhiệm, chừng ba mươi năm sau thời đại của ba vị văn thần kiêm thi sĩ trên đây — thời các ông trước ta hơn hai trăm năm xã hội ta chưa có những thi sĩ chuyên nghiệp, tức những người không làm gì cả ngoài việc làm thơ — một nhóm người con cháu của ông Ngô Thời Nhiệm — tên ông này được đặt cho một con đường ở Sài Gòn của ta — người đời sau gọi nhóm các ông này là Ngô Gia Văn Phái; các ông này ở làng Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, đã chung sức viết ra tác phẩm lịch sử tiểu thuyết đầu tiên của văn học Việt Nam: Hoàng Lê Nhất Thống Chí.

Tôi đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí, bản dich của Ngô tất Tố, những năm 1940, khi tôi tuổi đời mới tròn Một Bó. Ở vào số tuổi đó tâm trí tôi chỉ có thể thấy là hay những truyện như  Dế Mèn phiêu lưu ký, cao hơn nữa là những tiểu thuyết Trường Ðời, Giông Tố. Năm 1960 — hai mươi năm sau – năm 1960 tôi đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí lần thứ hai, bản dịch mới của một dịch giả tôi không nhớ tên, do Nhà Xuất bản Tự Do của Nhật báo Tự Do, Sài Gòn, ấn hành.

Trong lần đọc thứ hai này tôi thấy tác phẩm thật hấp dẫn, thật linh động. Tôi nghĩ đến chuyện những người viết HLNTC không phải là những người viết tiểu thuyết chuyên nghiệp, họ không có qua một kinh nghiệm nào về việc viết tiểu thuyết lịch sử..; vậy mà tại sao các ông  hoàn thành được bộ tiểu thuyết lịch sử giá trị đến như thế ?? Các ông viết HLNTC vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ 19 — khoảng những năm 1830 — kể từ ngày ấy tới nay đã  gần hai trăm năm trôi qua, tôi không thấy văn học ta có quyển tiểu thuyết lịch sử thứ hai nào xứng đáng gọi là tiểu thuyết lịch sử.

Rồi những mùa lá rụng theo nhau qua. Những người Việt Nam như tôi, cùng thế hệ tôi, ra đời trong nửa đầu thế kỷ 20, trưởng thành vào những năm giữa thế kỷ và suy tàn, già lão cùng với thế kỷ, không chỉ chứng kiến một cuộc biển dâu, mà là phải sống qua đến những hai, ba cuộc biển dâu. Cuộc biển dâu dữ dội nhất, tàn khốc nhất xẩy ra Tháng Tư 1975. Những năm 1996, 1997, sống yên lành ở Rừng Phong, Virginia Ðất Tình Nhân, những đêm êm vắng trong căn phòng ấm, đèn vàng, tôi đọc lại Hoàng Lê Nhất Thống Chí không biết đây là lần thứ mấy trong đời, tôi vẫn thấy tác phẩm thật hay, và lần này tôi thấy tôi cần phải viết ra, phải nói lên những cảm nghĩ của tôi khi đọc tác phẩm này.

Một trong những thắc mắc của tôi khi đọc HLNTC là: tại sao triều đại Nguyễn Tây Sơn nổi lên nhanh, mạnh, anh hùng đến như thế mà lại suy tàn, thảm bại cũng nhanh đến như thế ?Vua Quang Trung thống lãnh quân dân đánh tan bọn Mãn Thanh đầu năm Kỷ Dậu 1789 — Ra quân từ Phú Xuân những ngày cuối năm Mậu Thân 1788, tiến vào thành Thăng Long ngày Mồng Năm Tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789. Trước khi xuất quân vua lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân. Vua Quang Trung làm vua chỉ được có năm năm trời. Vua mất vào năm Quí Sửu 1793. Nguyễn Nhạc, cũng xưng hoàng đế, đóng đô ở Qui Nhơn, cũng tạ thế trong năm Quí Sửu 1793. Vua Quang Trung băng, con Vua là Quang Toản lên nối ngôi. Chưa đầy mười năm sau — năm Nhâm Tuất 1802 — Vua Gia Long bắt sống Quang Toản, chấm dứt triều đại Tây Sơn. Tính từ năm Vua Quang Trung lên ngôi năm Kỷ Dậu 1789 đến khi con vua là Quang Toản bị giết năm Nhâm Tuất 1802, Nhà Tây Sơn chỉ trị nước được có 13 năm.

Chẳng cần phải có kinh nghiệm chính trị hay kinh nghiệm sống, em nhỏ lên ba, cụ già chín bó cũng biết rằng không phải chỉ một mình Vua Quang Trung anh minh, hùng lược, tài tuấn  mà dân tộc ta có chiến thắng Ðống Ða. Tất nhiên bên cạnh, đằng sau Vua phải có thật nhiều những vị văn thần, dũng tướng giỏi, mạnh, những người tài cán thực hiện những sách lược, mệnh lệnh của vị chủ soái. Những vị tướng văn, tường võ này tuy không có năng lực và hùng lược như Vua nhưng cũng không phải là những người tầm thường. Nhà Vua mất sớm nhưng còn những võ tướng Ngô Văn Sở, Ðô Ðốc Long, những dũng tướng của trận Ðống Ða lịch sử, văn thần có Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích vv. Và còn biết bao nhiêu  người tài tuấn nữa?? Những vị này đi đâu hết, những vị này nghĩ gì, làm gì..? Tại sao các vị còn đó mà các vị để cho cơ nghiệp nhà Tây Sơn quang vinh bị suy bại thảm thê nhanh quá đến như thế ??

Và như vậy là trong những năm cuối thế kỷ 18 tình hình chính trị nước ta được hình thành giống như thời Tam Quốc bên Trung Quốc: Vua Quang Trung Nguyễn Huệ  giữ đất từ Phú Xuân — Thừa Thiên — đến Ải Nam Quan — lãnh địa Tây Sơn lớn và dài nhất — Vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc đóng đô ở Bình Ðịnh — lãnh địa của Vua Thái Ðức nhỏ hẹp nhất, đã yếu lại bị hai mặt nam bắc tấn công, nhà Tây Sơn Bình Ðịnh bị diệt sớm nhất. Vua Gia Long Nguyễn Ánh xưng vương ở Gia Ðịnh. Vào thời này các ông Chúa nhà Nguyễn mới chiếm cứ và bắt đầu khai thác phần đất phì nhiêu bên dòng Cửu Long Giang.

Tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí  – HLNTC -- cho tôi thấy có thể Vua Gia Long thù hận Vua Quang Trung — cũng phải thôi. Hai ông vua này từng cầm quân xung đột với nhau nhiều trận, Vua Gia Long từng bị thảm bại nhiều lần — Nhưng các vua Minh Mạng, Tự Ðức tỏ ra có thái độ khoan dung hơn với triều đại Quang Trung. Hoàng Lê Nhất Thống Chí có nhiều trang tả chiến công oanh liệt của Vua Quang Trung mà không bị triều đình Huế cấm dân lưu trữ hay làm khó dễ những người viết. Bộ tiểu thuyết lịch sử số một của ta không một lần được khắc bản gỗ để in, những bản truyền lại đời sau chỉ là những bản chép tay. Nhưng quả thật là triều đình nhà Nguyễn đã không làm một hành động nào để tiêu hủy tác phẩm này vì trong đó có những trang đề cao triều đại thù nghịch trước.

Tôi sẽ đăng  những trang Hoàng Lê Nhất Thống Chí cùng với lời bình luận của tôi. Tập sách sẽ có tên là Trăm Năm Binh Lửa. Tôi không làm việc này như việc phân tích lịch sử mà chỉ là viết ra những cảm nghĩ, những nhận xét của tôi, của một người đọc rất thường khi đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Mục đích của tôi chỉ là để giải trí cho quí vị bạn đọc và đem lại cho quý vị một dịp đọc lại Hoàng Lê Nhất Thống Chítác phẩm tiểu thuyết lịch sử giá trị của văn học ta.

Mời bạn đọc những trang đầu của Trăm Năm Binh Lửa:

CHIẾN THẮNG ÐỐNG ÐA. Trích “Hoàng Lê Nhất Thống Chí.”

Bắc Bình Vương cho đắp đàn trên Núi Bân, tế cáo Trời Ðất cùng các vị Thần Sông, Thần Núi, chế ra áo cổn, mũ miện, lên ngôi hoàng đế; đổi năm thứ 11 niên hiêu Thái Ðức của Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiêu Quang Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân. Hôm ấy là ngày 25 Tháng Chạp năm Mậu Thân — 1788.

Vua đốc xuất đại binh thủy bộ ra đi. Ngày 29 đến Nghệ An Vua cho vời vị cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp đến gập và hỏi:

– Quân Thanh sang chiếm nước ta, tôi đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay thua, tiên sinh nghĩ thế nào ?

Nguyễn Thiếp nói:

– Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh, nên giữ ra sao. Chúa công ra Bắc chuyến này, không quá mười ngày giặc Thanh sẽ bị dẹp tan.

Vua rất mừng, liền sai Ðai tướng là Hám Hổ Hầu kén lính ở Nghệ An, cứ ba xuất đinh thì lấy một người làm lính, chưa mấy lúc đã được một vạn quân tinh nhuệ. Rồi Vua mở cuộc duyệt binh, đem số thân quân ở Thuận Hóa. Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, số lính mới tuyển ở Nghệ An làm trung quân.

Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh, truyền cho mọi người nghe lệnh:

– Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân định rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải cùng nòi giống dân ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay chúng đã nhiều phen tràn sang cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải; người mình ai cũng muốn đuổi chúng đi. Ðời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Ðinh Tiên Hoàng, Lê Ðại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Ðạo, đời Minh có Lê Thái Tổ. Các ngài không nỡ ngồi nhìn bọn giặc phương Bắc làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân chống địch. Các ngài chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương bắc. Ở các thời ấy Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Ðinh tới nay dân ta không còn quá khổ sở như thời bị nội thuộc trước đó. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy là những chuyện cũ rành rành của những triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh. Vì vậy ta phải đem quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy  cùng ta đồng tâm, hiệp lực, dựng nên công lớn. Chớ có quen thói ăn ở hai lòng, làm chuyện phản trắc, việc phát giác sẽ bị giết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước.

Quân sĩ đều nói:

– Xin vâng lệnh. Không dám hai lòng.

Hôm sau Vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các đạo quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Ðến núi Tam Ðiệp, Sở và Lân ra đón, hai người mang gươm trên lưng mà chịu tội.

Vua Quang Trung nói:

– Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho quản trị cả mười một thừa tuyên, lại cho tùy tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dậy: “Quân thua, chém tướng.” Tội các ngươi đáng chết vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết đánh, tài tùy cơ, ứng biến thì không có. Nên ta đã để Ngô thời Nhiệm ở lại đấy làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục. Thăng Long là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi. Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ làm nội ứng, các ngươi làm sao mà giữ thành được. Các ngươi biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của giặc, lui về chặn giữ nơi hiểm yếu, trong thì kích thích lòng quân, ngoài thì làm cho giặc kiêu căng; kế ấy là rất đúng. Khi mới nghe nói ta đã đoán việc lui quân về đây là do Ngô thời Nhiệm chủ mưu, sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như vậy.

Thời Nhiệm lậy hai lậy tạ ơn. Vua nói tiếp:

– Lần này ta xuất quân, phương lược tiến đánh ta đã có sẵn. Chẳng qua mười ngày, có thể đuổi được giặc Thanh. Nhưng ta nghĩ nước chúng lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua trận, chúng ắt lấy làm thẹn mà mưu sự báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Ðến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới có thể dẹp được việc binh đao; việc ấy không phải Ngô Thời Nhiệm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn nuôi dưỡng lực lượng; bấy giờù nước giầu, dân mạnh, ta có sợ gì chúng.

Bọn Sở, Lân đều lậy tạ và nói:

– Chúa thượng thật là nhìn xa, chúng tôi ngu muội không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện nay phương lược tiến đánh ra sao xin Chúa thương chỉ rõ, chúng tôi nhất nhất tuân theo.

Vua sai mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo. Hôm đó là ngày 30 Tháng Chạp. Vua nói riêng với các Tướng:

– Ta với các ông hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước, tối 30 Tết ta lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới ta vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ông hãy nhớ lời ta.

Vua truyền lệnh : Ðai tư mã Sở, Nội hầu Lân đốc xuất tiền quân làm tiên phong, Hám hổ hầu đốc xuất hậu quân làm đốc chiến, Ðai đô đốc Lộ, Ðô đốc Tuyết đốc xuất tả quân; trong tả quân có thủy quân vượt biển vào sông Lục Ðầu. Ðô đốc Tuyết sẽ hành quân ở vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt đông, Ðô đốc Lộc kéo quân đi gấp lên các hạt Lạng Sơn, Phượng Nhãn, Yên Báy chặn đường về của quân Thanh; Ðại đô đốc Bảo, Ðô đốc Long đốc xuất hữu quân, trong đó có quân voi và quân kỵ mã; Ðô đốc Long dẫn quân xuyên qua huyện Chương Ðức, đến thẳng làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, đánh ngang vào đồn quân Thanh ở Ðiền Châu, Ðô đốc Bảo dẫn quân voi, ngựa ra làng Ðại Áng, huyện Thanh Trì, tiếp ứng cho cánh hữu.

Năm đạo quân vâng lệnh, đúng ngày gióng trống lên đường ra bắc.

Khi quân ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó chạy trước; khi quân đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi tuần thám từ xa trông thấy bóng đã bỏ chạy. Vua Quang Trung thúc quân đuổi theo, đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết bọn này, không một tên nào chạy thoát. Vì vậy không có quân về báo tin, những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi, Ngọc Hồi đều không hay biết gì cả.

Nửa đêm ngày Mồng Ba Tháng Giêng năm Kỷ Dậu — 1789 — Vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc. Vua cho quân  vây kín làng ấy rồi mới bắc loa truyền gọi. Tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran, nghe như đông đến vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời, sợ hãi, liền xin ra hàng; lương thực, khí giới trong đồn này bị quân Nam lấy hết.

Vua Quang Trung ra lệnh lấy 60 tấm ván, ghép ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín; tất cả là 20 bức. Kén lính khỏe mạnh, mười người khiêng một bức, lưng dắt dao ngắn, 20 binh sĩ khác theo sau mỗi bức, dàn hàng ngang thành trận chữ “Nhất”, tiến đến đồn Ngọc Hồi. Vua cưỡi voi đốc tiến. Mờ sáng ngày Mồng Năm quân đến đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh trong đồn nổ súng bắn ra, quân tiên phong nấp sau những bức ván nên không ai bị trúng đạn. Thấy có gió bắc, quân Thanh dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không trông thấy gì. Quân Nam bắt đầu bị rối loạn. Nhưng chỉ trong chốc lát trời trở gió nam, quân Thanh tự làm hại mình.

Vua Quang Trung hạ lênh đội khiêng ván xông thẳng đến đồn. Khi đến nơi đội quân này bỏ ván, rút dao ngắn chém giặc. Những binh sĩ theo sau nhất tề xông vào đánh.

Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Thái thú Ðiền Châu là Sầm Nghi Ðống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết, thây giặc nằm đầy đồng, máu chẩy thành suối, quân Thanh đại bại.

Trước đó Vua Quang Trung đã phái một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ, gióng trống làm nghi binh ở phía đông. Quân Thanh chạy về đến đó trông thấy cờ xí lại càng hoảng sợ. Lại thấy quân voi từ Ðại Áng tới, quân Thanh hết hồn, hết vía bị dồn chạy xuống Ðầøm Mực, làng Quỳnh Ðô. Quân Tây Sơn lùa voi giày đạp, quân Thanh chết đến hàng vạn người trong đầm này.

Giữa trưa hôm ấy — Ngày Mồng Năm Tết Kỷ Dậu — Vua Quang Trung kéo quân vào thành Thăng Long. Vua hẹn với tướng sĩ sẽ ăn Tết trong thành Thăng Long ngày Mồng Bẩy Tết. Chiến thắng diễn ra đúng như lời Vua nói trước.

Ngưng trích.

Lời bàn của Công Tử Hà Ðông :

Ðây là lần thứ hai Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đem quân ra Thăng Long. Lần thứ nhất  Quân Tây Sơn ra Bắc là năm Bính Ngọ — 1786. Khi ấy Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Bình — một tên khác của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ — đem quân ra đánh lấy đất Thuận Hóa, thủ phủ của đất này là thành Phú Xuân, tức thủ đô Huế đời nhà Nguyễn Gia Long. Lần xuất quân thứ nhất này Nguyễn Bình có các tướnng Nguyễn hữu Chỉnh, Võ văn Nhậm phụ tá. Chỉnh là người Bắc Hà, có tài lược, mưu mô, lại biết rõ tình hình chính trị Bắc Hà, nên khuyên Bình nhân thắng lợi tiến quân ra Thăng Long diệt họ Trịnh. Bình làm theo lời khuyên của Chỉnh và thành công. Bọn tướng lãnh của Chúa Trịnh, đa số chỉ quen tranh quyền vị, đánh giết lẫn nhau, hà hiếp, bóc lột dân đen, thấy quân Tây Sơn kéo ra đều thi nhau bỏ chạy. Chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Tông, tự tử chết trên đường chạy trốn. Chúa Trịnh bỏ chạy, Vua Lê vẫn ở kinh đô. Nguyễn Bình vào Thăng Long, tôn trọng Vua Lê, nói:

– Thiên hạ là của Chúa Trịnh thì một thước đất tôi cũng lấy, thiên hạ của Vua Lê thì một thước đất tôi cũng không lấy.

Tuy nói một thước đất của Vua Lê ông cũng không lấy, nhưng Nguyễn Bình có lấy nàng công chúa Ngọc Hân của Vua Lê. Hoàng Lê Nhất Thống Chí không cho ta biết khi tiến quân ra Bắc Vua Quang Trung, khi ấy mới là Nguyễn Bình,  bao nhiêu tuổi, trước khi lấy Công Chúa Ngọc Hân ông đã có vợ hay chưa. Lịch sử ta, theo kiểu viết sử của Trung Quốc, thường không viết gì về đời sống tình cảm vợ chồng của những nhân vật lịch sử.

Những cơn binh lửa, biển dâu trùng trùng nối tiếp nhau. Nguyễn hữu Chỉnh đưa quân Tây Sơn ra bắc, ở lại không theo về nam, trở thành Quận công, quyền nghiêng thiên hạ. Cuối cùng Chỉnh bị Tướng Tây Sơn Võ văn Nhậm bắt sống, giết một cách thê thảm : phanh thây, mổ bụng, moi ruột cho chó ăn. Trong HLNTC có nhiều người chết thê thảm, thê thảm nhất là cái chết của Vua Quang Toản, con Vua Quang Trung, và cái chết của Bằng quận công Nguyễn hữu Chỉnh.

Trong đoạn truyện trên đây tôi muốn các bạn cùng xét với tôi sự kiện :

– Ngày 29 Tết Vua Quang Trung đến Nghệ An, ra lệnh tuyển quân ở Nghệ An “cứ ba xuất đinh thì lấy một người lính, chưa mấy lúc đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ...” Tôi thắc mắc về chi tiết này.

Như trong truyện ta thấy Vua Quang Trung không ở Nghệ An lâu đến ba ngày. Mà dù có ở lại đấy ba ngày chăng nũa quân Tây Sơn cũng không thể có đủ thì giờ để tuyển nhập ngũ đến một vạn quân — 10.000 người -- Kể cả thời đại này, với cả trăm nhân viên hành chính chuyên về tuyển mộ binh sĩ, với những dàn máy vi tính hỗ trợ, sợ cũng khó có thể tuyển mộ được đến 10.000 người nhập ngũ trong ba ngày. Ðất Nghệ An lại không phải là đất đai nhà Tây Sơn. Dân Nghệ An tất nhiên không tuân phục ngay mệnh lệnh của những người xa lạ mới đến. Khi có giặc trai tráng địa phương, nếu không cầm võ khí chống địch, thường bỏ trốn để giữ mạng sống. Dân đất bị chiếm mới được tuyển vào lính, không được huấn luyện, không thể nào là “quân tinh nhuệ” được.

Dã sử ghi về chuyến tiến quân ra Bắc đánh quân Tôn sĩ Nghị của Vua Quang Trung thêm chi tiết :

– Vua Quang Trung cho quân lính cứ ba người một tốp, khiêng võng nhau đi — một người nằm võng, hai người khiêng, cứ thế thay đổi — thành ra quân trẩy liên miên không lúc nào ngừng mà mọi người vẫn được thay phiên nhau nghỉ. Do đó trong chuyến đi này quân Tây Sơn đã hành quân cực kỳ thần tốc.

Tôi thấy :

– Trước hết quân lấy võng đâu mà khiêng nhau? Ðể có thể đánh thắng 200.000 quân Mãn Thanh thuộc loại chính quy, tức lính nhà nghề, quân Tây Sơn ta phải có ít nhất là 100.000 người. Và phải có ít nhất là 20.000 cái võng.

Tôi nghi người sau chép sử phóng đại số quân Thanh sang Thăng Long. Quân Thanh sang nước ta không thể nhiều đến số 50.000 người. Họ lấy gì ăn? Họ không thể cướp gạo của dân Nam để ăn – họ có thể cướp gạo nhưng dân Nam ở quanh Thăng Long thời ấy không nhiều, không đủ gạo để nuôi bọn quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị có thể cho tải gạo từ bên Tầu sang, nhưng đường quá xa, lính đi bộ, phải mất nhiều ngày quân tải lương mới từ Vân Nam sang đến Thăng Long. Ði đường, quân tải lương phải ăn. Ðường xa họ ăn gần hết số gạo họ mang theo. Số quân Nam của Vua Quang Trung cũng được phóng đại.

Cứ cho là Vua Quang Trung đã tính trước, đã cho quân nhu dệt võng trước — việc dệt một lúc 20.000 cái võng không phải việc dễ làm. Nhưnng cứ cho là có sẵn võng đi — Việc người lính hành quân đi xa vạn dặm, phải mang theo võ khí, lương thực, lại phải vừa đi vừa khiêng võng có người nằm.. có phải là việc nên làm chăng, có lợi chăng ? Hay việc đó chỉ làm cho cả ba người lính người nào cũng mất sức, thay vì họ được đi mà không phải khiêng võng ??? Hành quân đến nơi họ còn phải chiến đấu nữa ! Phải chăng chuyện lính khiêng võng nhau chỉ là một huyền thoại nhân dân thêm vào chiến dịch này???

Và đây là những ngày tàn thê thảm quá đỗi của Nhà Tây Sơn oai hùng một thưở:

Ngày 18 tháng Sáu năm Nhâm Tuất — 1802 — Vua Gia Lonng tiến quân ra Thăng Long, quân Tây Sơn  tan vỡ. Vua Quang Toản bỏ thành cùng với em là Quang Thùy và bọn Ðô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà, chạy lên phía bắc.

Vài ngày sau Quang Thùy và vợ chồng Ðô đốc Tú cùnng tự thắt cổ chết. Quang Toản và một số triều thần bị thổ hào Kinh Bắc bắt sống, đóng cũi đưa đến nộp cho quân Gia Long.

Dẹp yên Bắc Hà Vua Gia Long ở lại thành Thăng Long một thời gian, hạ chiếu kêu gọi nhân dân yên ổn làm ăn, chia đặt quan văn, quan võ cai trị các trấn, lại mời nhiều quan chức cũ của nhà Lê ra làm việc, giảm bớt thuế khóa.

Vài tháng sau Vua Gia Long trở về kinh đô Phú Xuân, tổ chức đại lễ tế cáo trời đất cùng các vị  tiên vương, Vua Quang Toản cùng nhiều người khác theo Vua Quang Toản bị đem ra dùng cực hình giết chết trong lễ này… Nhà Tây Sơn tuyệt diệt.

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương…

Vua Gia Long  vào thành Thăng Long năm 1802 thì năm 1802 — cũng năm 1802, ngay trong năm 1802 — Nguyễn Du chấm dứt cuộc bất hợp tác với nhà cầm quyền, cuộc bất hợp tác kéo dài hơn mười mùa lá rụng dưới triều Vua Tây Sơn, ra nhận quan chức của triều Vua mới…

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Mước còn trau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy, người đây luống đoan trường.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét