John Garnaut trình bày trong buổi hội luận đặc biệt với giới tinh hoa Úc vào tháng Tám năm 2017 – Phạm Phú Khải dịch, VOA
Như một vài bạn đã biết, suốt 8 tháng vừa qua, tôi ở cương vị một người công chức, và cố gắng thực hiện tốt các hành vi được coi là mẫu mực như chờ thời cơ, che giấu ý kiến riêng và tôn trọng cái trật tự hành chánh một cách nghiêm ngặt.
Bây giờ thì tôi không còn những ràng buộc như thế nữa.
Tuy nhiên trước khi làm điều này, tôi muốn cảm ơn các bạn rất nhiều vì đã có mặt ngày hôm nay, đặc biệt cảm ơn Paul và Sam đã mang đến cho tôi cơ hội này. Thật là vinh dự được có mặt tại đây, ở phần mở đầu của một chuỗi hội thảo hứa hẹn sẽ có ý nghĩa quan trọng lớn.
Chuỗi hội thảo này, bản thân nó, lại là một hành vi mang tính định hướng và nhào nặn xã hội (social engineering) táo bạo. Ý tưởng ở đây là bằng việc để cho các nhà kinh tế học và các chiến lược gia an ninh hợp tác cùng nhau, chúng ta có thể thúc đẩy đối thoại và kể cả hòa bình giữa các nhóm/cộng đồng khác nhau tại Canbera – với mục tiêu lâu dài là hoạch định ra các chính sách mang tính đồng bộ.
Chúng ta sẽ xem kết quả của việc đó như thế nào.
Nhưng trong lúc này, tôi ở đây với tư cách một người xuất thân từ giới kinh tế học nhưng bị buộc phải dần dần nhường chỗ cho phía an ninh. Sự thoái lui này diễn ra từng bước trong suốt một thập kỉ, vì tôi đã phải chấp nhận rằng sự cởi mở về kinh tế không đảm bảo sẽ dẫn đến cởi mở về chính trị. Nhất là khi bạn có một chế độ chính trị vừa có khả năng lại vừa quyết tâm đảm bảo cho điều đó [tức cởi mở chính trị] không xảy ra.
Vẫn biết chính trị không phải là tất cả, nhưng không có quốc gia nào khác (ngoại trừ Bắc Triều Tiên) trên trái đất mà sự hiện diện của nó lại có ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực như vậy. Và không có thể chế chính trị nào mà lại ràng buộc chặt chẽ với ý thức hệ đến như thế.
Trong phạm vi công việc mà tôi đang làm chính ở tòa nhà này, tôi đã rất nỗ lực để loại bỏ vấn đề ý thức hệ khỏi những phân tích của mình về cách mà Trung Quốc đang tác động đến Úc và cả khu vực. Ý thức hệ là thứ rất xa lạ và khó hiểu. Vì vậy để làm cho nó dễ hiểu hơn đối với những nhà lãnh đạo bận rộn, tôi tìm cách “bình thường hóa” các sự kiện, hành động và khái niệm bằng cách đặt chúng vào khuôn khổ của những thuật ngữ quen thuộc hơn.
Cách tiếp cận “Bình thường hóa” đối với Trung Quốc cũng có tác dụng bỏ qua những tranh luận mang tính quy phạm, chuẩn tắc vốn rất căng thẳng về thế nào là Trung Quốc, Trung Quốc đang ở đâu, cũng như nó muốn gì. Đây là một cách để tránh những cuộc vãi vã về việc ai là người thân hay là chống Trung Quốc. Việc tách rời nhân tố “Đảng Cộng Sản” ra khỏi Trung Quốc là một cách để tránh gây ra phản ứng mang tính tự vệ của những người khác, giúp cho cuộc đối thoại không mất đi ý nghĩa và hiệu quả.
Phương pháp thực dụng kiểu này, cho đến nay, đã phát huy hiệu quả khá tốt. Chúng ta đã đưa những thảo luận về Trung Quốc lên một tầm cao mới, tinh tế hơn, trong khoảng một năm vừa rồi.
Tuy nhiên, khi loại bỏ ý thức hệ khỏi những cuộc thảo luận, chúng ta đồng thời cũng đang từ bỏ việc xây dựng một khuôn khổ có giá trị cho việc giải thích và dự đoán.
Ở mức độ nào đó, xét về tầm ảnh hưởng mà Trung Quốc đã vươn được vào nước Úc, chúng ta sẽ phải rất nỗ lực để đọc vị cái bản đồ ý thức hệ mà đã định hình ra thứ ngôn ngữ, các quan niệm và quyết định của giới lãnh đạo Trung Quốc. Nếu muốn lập ra bản đồ gen của Đảng Cộng Sản, chúng ta cần phải đọc được DNA ý thực hệ của họ.
Vì vậy, hôm nay tôi mạn phép bước vào lãnh địa nhiều tranh cãi này.
Tôi muốn đưa ra một số điểm bao quát dưới đây về nền tảng lịch sử của hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngoài việc là nó rất quan trọng:
- Chủ nghĩa Cộng sản đã không được du nhập vào Trung một cách nguyên vẹn như phiên bản gốc. Thay vào đó, nó được lai ghép vào một hệ thống tư tưởng đã tồn tại sẵn – hệ thống triều đại phong kiến cổ điển Trung Quốc.
- Trung Quốc có một sự tôn kính ở mức bất thường đối với sách vở và chấp nhận giá trị giáo huấn của nó.
- Chủ nghĩa Mác-Lê nin đã được diễn giải cho Mao và những nhà cách mạng Trung Quốc khác bởi một trung gian quan trọng: Joseph Stalin.
- Chủ nghĩa Cộng sản- được diễn giải bởi Lê-nin, Stalin và Mao là một ý thức hệ tổng thể. Nói một cách không phải đạo về chính trị lắm thì ý thức hệ đó mang tính toàn trị.
- Tập Cận Bình đã khôi phục ý thức hệ này đến một mức độ chưa từng thấy kể từ thời Cách mạng Văn hóa.
Một vũ trụ học mang tính triều đại
Thông qua công việc làm báo và viết lách của mình, tôi nhận thấy ý thức hệ chính thống của nước Trung Quốc Mới (Trung Quốc Mới – là cách nói mà Đảng ưa dùng), là chủ nghĩa cộng sản, đang cùng tồn tại với một ý thức hệ không chính thức của Trung Quốc Cũ. Những người sáng lập ra Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã lên nắm quyền với lời hứa sẽ lật đổ và phá hủy mọi thứ thuộc về quá khứ quân chủ tập quyền đen tối, nhưng họ đã không bao giờ thay đổi tâm thức chung của dân tộc.
Mao và các đồng chí của ông ta đã lớn lên với những câu chuyện, những giai thoại về nước Trung Quốc phong kiến. Họ đã không bao giờ ngừng đọc những thứ này. Những tiểu thuyết kinh điển của Trung Quốc như Hồng Lâu Mộng và Tam Quốc Diễn Nghĩa đều nói về sự trỗi dậy và suy tàn của các triều đại. Đây là cái “truyện thuyết lớn, bao quát” trong văn học và nghệ thuật chép sử của Trung Quốc, thậm chí cho đến tận ngày nay.
Mao thì còn đặc biệt bị ám ảnh bởi những câu chuyện đó. Thư kí một thời của Mao từng giải thích với tôi rằng: “Ông ta chỉ ngủ trên một phần ba chiếc giường, còn lại hai phần ba gường chất đầy những cuốn sách có chủ đề về Trung Quốc, sách cổ Trung Quốc. Ông ta nghiên cứu về chiến lược cai trị đất nước của các vị hoàng đế. Đó là điều mà Mao quan tâm bậc nhất”.
Những nhà cách mạng tiên phong khác đều đã truyền lại những câu chuyện kiểu này cho con cháu mình. Con gái của cán bộ tuyên giáo hàng đầu của Mao, Hồ Kiều Mộc (Hu Qiaomu), nói với tôi rằng cha cô chỉ to tiếng một lần duy nhất với cô khi cô thú nhận đã không đọc hết cuốn tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng (cuốn sách dài cả triệu chữ). Hồ Kiều Mộc đã rất giận dữ. Ông nói rằng Mao Chủ tịch đã đọc cuốn sách đó tới 25 lần.
Vì vậy đây là quan sát đầu tiên của tôi về ý thức hệ theo nghĩa rộng nhất, như một hệ tư tưởng xuyên suốt của ý kiến và lý tưởng: các gia đình sáng lập ra Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đều chìm đắm trong hệ thống đế chế. [tức tư tưởng Quân chủ tập quyền]
Phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa cộng sản và tư tưởng phong kiến tập quyền không dễ dàng kết hợp được với nhau.
Nhưng chúng không phải là không thể dung hòa. Trần Vân (Chen Yun) là người đã hoàn thiện công thức chủ nghĩa Cộng sản phong kiến: con cháu của họ phải thừa hưởng quyền lực không phải vì đặc quyền mà là vì chúng có thể được tin cậy về sự trung thành với sự nghiệp cách mạng. Hoặc chính ông đã từng nói: “con cháu chúng ta ít nhất cũng sẽ không đào mồ mả của chúng ta lên”.
Tập Cận Bình đã thực hiện một yêu sách bất thành văn mang tính quý tộc đối với quyền lực, bắt nguồn từ sự gần gũi của cha ông đối với Mao Chủ Tịch – người sáng lập ra Đế Chế Đỏ. Tập là đại diện mang tính thỏa hiệp giữa tất cả các gia tộc lớn sáng lập ra chế độ. Đây chính là điểm khởi đầu để tìm hiểu về thế giới quan của Tập và đội ngũ các thái tử đỏ của ông ta.
Trong quan điểm của các thái tử đỏ của Trung Quốc- hay còn gọi là những Người kế vị cách mạng (cách mà họ muốn được biết đến), Trung Quốc vẫn đang mắc kẹt trong vòng quay từng tạo ra và hủy diệt mọi triều đại đã tồn tại trước đó. Trong truyền thống này, một khi bạn đánh mất quyền lực chính trị, bạn không chỉ là mất đi công việc theo kiểu như xã hội phương Tây, mà bạn còn mất tài sản, tự do, có khi là mạng sống, và thậm chí là cả sự an toàn cho gia tộc mình. Lịch sử sẽ xóa tên bạn. Được làm vua, thua làm giặc.
Với những vấn đề như thế, thành ngữ trong tiếng Anh là “life-and-death-struggle” (cuộc đấu tranh sinh tử) không thể diễn tả được hết tình cảnh khốc liệt này. Công thức của Trung Quốc là: “Ngươi chết – Ta sống”. Ta phải đánh phủ đầu trước để giữ được mạng. Tập và những đồng chí của ông ta trong triều đại đỏ tin rằng họ sẽ có kết cục giống nhà Mãn Thanh và nhà Minh khi họ bị ném vào sọt rác của lịch sử.
Sự tôn kính của Trung Quốc với sách vở
Điểm thứ hai liên quan đến điểm thứ nhất đã nói ở trên, đó là Trung Quốc có một sự tôn kính đặc biệt đối với sách vở. Các câu chuyện, lịch sử và người thầy có thẩm quyền đạo đức rất lớn. Sự sùng bái này lớn hơn bất cứ điều gì ở bất cứ đâu mà tôi có thể nghĩ đến, ngoại trừ nước Nga thời Sa Hoàng. Điều này có thể đã khiến Trung Quốc và Nga, về mặt văn hóa, rất dễ tiếp thu và bị chinh phục bởi các thủ đoạn tuyên truyền và với ý thức hệ được tuyên truyền. Có một điều chắc chắn hơn là Trung Quốc đặc biệt dễ tiếp thu ý thức hệ của Liên Xô vì các nhà trí thức Trung Quốc đã tìm thấy ý nghĩa trong văn học và sách vở của Nga sớm hơn và dễ dàng hơn so với các nguồn khác của phương Tây. Nhà văn Lỗ Tấn từng nói: “Văn học Nga là người dẫn đường và người bạn của chúng tôi”.
Trong thuật trị quốc cổ đại của Trung Quốc, có hai phương tiện dùng để giành và giữ quyền kiểm soát “giang sơn”: thứ nhất là Võ (vũ khí, bạo lực), thứ nhì là Văn (ngôn ngữ, văn hóa).
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn tin rằng quyền lực bắt nguồn từ việc kiểm soát cả phạm trù đất đai lẫn văn hóa. Bạn không thể giữ được quyền lực thể chất (physical power) mà không có sức mạnh và sự thuyết phục về quyền lực diễn ngôn. Văn và võ phải đi song hành cùng nhau.
Mấu chốt để hiểu được sức hấp dẫn của Quốc tế Cộng sản Sô Viết tại Thượng Hải và Quảng Châu trong những năm 1920 là việc các đặc vụ Liên Xô (phải thừa nhận là rất xuất sắc) đã kể được một câu chuyện vô cùng hấp dẫn. Họ đến Trung Quốc với tiền bạc, súng đạn và kỹ thuật tổ chức nhưng sức hấp dẫn lớn nhất của họ nằm ở câu chuyện hứa hẹn về một lối thoát dứt khoát, theo đường thẳng, từ vòng quay của các triều đại (phong kiến).
(Thực ra, theo cách biện giải của Liên Xô đối với chủ nghĩa Mác, thì tiến trình lịch sử không hoàn toàn là theo một đường thẳng. Thay vào đó, lịch sử được cho là di chuyển theo quỹ đạo xoắn ốc – được định hình bởi các vòng tròn “biện chứng” của đấu tranh, hủy diệt và tái tạo).
Lợi thế nổi bật về mặt diễn ngôn của Mao so với những lãnh đạo khác chính là chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo chủ nghĩa này, ngôn ngữ không chỉ là công cụ để phán xét đạo đức. Nó còn là phương tiện để định hình các hành vi được chấp nhận và là vũ khí để phân biệt giữa bạn và thù. Đây là ẩn ý của bài thơ Thấm Viên Xuân-Tuyết (bài thơ nổi tiếng nhất của Mao). Ý thức hệ Cộng sản cho phép Mao sử dụng văn hóa như một loại vũ khí bằng cách mà những đế vương tiền nhiệm chưa bao giờ làm được.
Ngoài ra, cũng nên nhớ ai đã là lãnh tụ của thế giới Cộng Sản trong suốt một phần tư thế kỉ lúc Mao vươn lên nắm quyền lực tuyệt đối.
Đồng chí “thiên tài vĩ đại” Stalin.
Mao biết rằng giáo điều của chủ nghĩa Mác-Lê Nin là tuyệt đối quan trọng cho đế chế của ông ta, nhưng cá nhân ông ta lại không đủ kiên nhẫn để tìm hiểu nó đến nơi đến chốn. Ông ta tìm thấy một lối tắt để đi đến sự hiểu biết thành thạo về ý thức hệ thông qua cuốn sách Khóa Học ngắn về Lịch sử của những người Bôn-sê-vích (Short Course on the History of the Bolsheviks) do Joseph Stalin chấp bút, xuất bản vào năm 1938, tức là cuối thời kỳ Đại Thanh Trừng. Lý Nhuệ (Li Rui) kể lại trong một cuộc phỏng vấn với sử gia Lý Hoa Ngọc (Li Huayu) rằng Mao nghĩ ông ta đã tìm thấy một “cuốn bách khoa toàn thư về chủ nghĩa Mác” và “ông ta tỏ ra như thể là đã phát hiện ra một kho báu”.
Khi Stalin qua đời vào tháng 3 năm 1953, cuốn sách Khóa học ngắn về Lịch sử của những người Bôn-sê-vích là cuốn sách được in nhiều thứ ba trong lịch sử nhân loại. Sau khi mất, Stalin được ca tụng là “bậc thiên tài” trong lời điếu văn trên trang nhất của tờ Nhân Dân Nhật Báo – các nhà máy in Trung Quốc được lệnh phải làm việc gấp đôi gấp ba. Cuốn sách này của Stalin đã trở nên gần như là một loại kinh sách tôn giáo ở Trung Quốc.
Mặc dù cuốn Khóa Học ngắn này khó đọc, nhưng lại mang đến cho chúng ta một lối tắt để hiểu về ý thức hệ Cộng sản, cũng như nó đã từng mang lại cho Mao.
Vấn đề của Stalin khác với Lenin. Lenin phải giành chiến thắng trong một cuộc cách mạng, còn Stalin thì phải duy trì nó [thành quả].
Thách thức lớn mang tính ý thức hệ của Stalin là phải giải thích được rằng họ đã chiến thắng trong cuộc cách mạng, nhưng cái mơ ước cháy bỏng từ lâu về sự bình đẳng hoàn hảo, mang tính không tưởng, thì lại phải bị trì hoãn. Ông ta phải hợp lý hóa chuyện trì hoãn vô thời hạn cái đích đến không tưởng về bình đẳng đó, và đặt cái mục tiêu ngày một xa đó xuống bên dưới mệnh lệnh của các cuộc đấu đá, sát phạt trong nội bộ đảng.
Cuốn sách của Stalin là cuốn cẩm nang cho cuộc đấu tranh không ngừng nhằm chống lại một danh sách những kẻ thù tưởng tượng đang hợp tác với gián điệp phương Tây nhằm khôi phục chủ nghĩa tư bản – cấp tiến của giai cấp tư sản. Nó được viết dưới dạng một cuốn biên niên sử về những chiến thắng của Lenin và sau đó là “đường lối đúng đắn” của Stalin nhằm tiêu diệt một danh sách vô tận các kẻ thù giai cấp. Có lẽ cũng cần nhắc lại rằng một bộ phận lớn trong số những kẻ thù “thâm độc” nhất trong nội bộ đã che giấu ý định lật đổ chế độ bằng vỏ bọc “cải tổ”.
Lợi ích thực tiễn của cuốn sách là ở chỗ nó kê ra một loại thuốc giải độc cho tình trạng trở nên xơ cứng và mục ruỗng – thứ mà sẽ ăn mòn và làm suy vong mọi chế độ độc tài.
Thông điệp độc đáo trong cuốn sách của Stalin là: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ luôn bị cản trở bởi những kẻ thù muốn khôi phục chủ nghĩa tư bản từ bên trong đảng. Những kẻ thù này ngày càng liều lĩnh và nguy hiểm khi chúng ngày một bị đe dọa – và khi chúng hợp tác với bọn gián điệp và tay sai của chủ nghĩa cấp tiến phương Tây.
Những dòng quan trọng nhất của cuốn sách là:
- “Khi cuộc cách mạng càng lún sâu, thì đấu tranh giai cấp sẽ ngày càng quyết liệt.”
- “Đảng trở nên mạnh mẽ hơn thông qua thanh trừng nội bộ.”
Thứ mà Stalin đã đưa cho Mao không chỉ mà một cuốn cẩm nang hướng dẫn để thanh trừng các đồng chí của ông ta mà còn là lời giải thích tại sao việc đó lại cần thiết. Thanh trừng địch thủ là cách duy nhất mà một đảng tiên phong có thể thanh tẩy chính bản thân mình và vẫn duy trì bản chất cách mạng và ngăn chặn sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản.
Thanh trừng là cơ chế để Đảng Cộng sản Trung Quốc đạt được “sự thống nhất” ngày càng lớn đối với “chân lý” cách mạng, như cách diễn giải của Mao. Đó là cơ chế để ngăn chặn sự mục ruỗng và thoái hóa vốn dĩ chắc chắc sẽ xảy ra sau khi các nhà lãnh đạo sáng lập rời khỏi chính trường.
Một cách quan trọng, Mao đã chia tay với Kruschev (Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô từ năm 1953 đến 1964) chính là bởi vì Kruchev đã chia ta với Stalin và với mọi thứ mà ông ta từng ủng hộ. Sự chia rẽ Trung-Xô là sự chia rẽ về ý thức hệ – trong đó Mao đòi quyền lãnh đạo về mặt ý thức hệ đối với thế giới cộng sản. Mác, Lê-nin, Stalin, Mao. Đó chính là việc Mao đòi được coi là người kế nghiệp chân chính của Stalin.
Chúng ta thường được nghe nhiều về việc Tập Cận Bình và về các đồng chí của ông ta đổ lỗi cho Gorbachev về sự sụp đổ của Liên Xô, nhưng thực ra sự bất bình của họ còn đi xa hơn thế. Họ đổ lỗi Kruschev. Họ cho rằng rằng Kruschev đã rời xa chủ nghĩa Stalin. Và họ đã thề rằng họ sẽ không bao giờ đối xử với Mao như những gì Kruschev đã làm với Stalin.
Hôm nay, 60 năm đã đi qua, chúng ta đang chứng kiến Tập đòi làm “người kế vị cách mạng đích thực” của Mao.
Ngôn ngữ của Tập là “sự thuần khiết của đảng”, “phê bình và tự phê bình”, “con đường quần chúng”; ông ta ám ảnh với “tính nhất thống “; ông ta tấn công các yếu tố của “chủ nghĩa cấp tiến phương Tây thù nghịch”, “chủ nghĩa lập hiến” và các biến thể khác của “sự lật đổ” ý thức hệ. Đây đều là chủ nghĩa Mác-Lê Nin được diễn giải bởi Stalin cũng như bởi Mao.
Đây là ngôn ngữ mà các thái tử Đảng nói chuyện khi họ gặp mặt và thỉnh thoảng khi tôi phỏng vấn họ lúc chuẩn bị diễn ra Đại hội Đảng lần thứ 18.
Và đây là cách mà Tập nói sau Đại hội Đảng lần thứ 18:
“Bác bỏ lịch sử của Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô, loại bỏ Lenin và Stalin, và gạt bỏ mọi thứ khác chính là rơi vào chủ nghĩa hư vô lịch sử; điều này làm rối loạn tư tưởng của chúng ta và làm suy yếu tổ chức đảng các cấp.”
Ngày nay, cái đích đến không tưởng (của chủ nghĩa Cộng sản) phải được duy trì, bất kể nó có vô lý ra sao đi nữa, để biện minh cho việc sử dụng các phương tiện tàn bạo trên con đường đi đến đó. Tập đã chèn thêm vào một vài mục tiêu mang tính nhất thời – cho những người thiếu kiên nhẫn cách mạng – nhưng logic nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin-Stalin-Mao vẫn còn nguyên.
Việc thanh trừng ngày một khốc liệt của Tập đối với các đồng chí đang cản đường ông ta chính là nằm trong cái logic đó.
Đó là cuộc thanh trừ đối thủ chính trị đầy thách thức – cũng là một thái tử Đảng – Bạc Hy Lai (Bo Xilai), bộ trưởng Bộ Công An Chu Vĩnh Khang (Zhou Yongkang), hai phó chủ tịch quân ủy TW Từ Tài Hậu (Xu Caihou) và Quách Bá Hùng (Guo Boxiong); cố vấn của Đoàn thanh niên Cộng sản – Lệnh Kế Hoạch (Ling Jihua) và người kế vị tiềm năng Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai) chỉ hai tuần trước.
Không một ai trong những người trên bị thanh trừng là do tư thù cá nhân. Việc thanh trừng này có tính biện chứng. Và không thể tránh khỏi.
Nó cũng thúc đẩy và làm tăng tốc hành trình của Trung Quốc tiến lên theo quỹ đạo lịch sử tất yếu hình xoắn ốc.
“Lịch sử cần phải được thúc đẩy theo tiến trình biện chứng của nó”, Tập Cận Bình phát biểu đánh dấu sinh nhật lần thứ 95 của Đảng vào năm 2015. Lịch sử luôn tiến về phía trước và không bao giờ chờ đợi những kẻ chần chừ.”
Đây là logic được áp dụng trong cũng như ngoài Đảng.
Ông phát biểu trên nhật báo Quang Minh: “Cần phải chống lại thứ văn hóa suy đồi của giai cấp tư sản và của xã hội phong kiến”.
Cốt lõi của chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Stalin là đấu tranh không ngừng. Đây là thuốc giải độc cho sự vôi hóa và thoái hóa đã phá hủy mọi triều đại, mọi chế độ độc tài và đế quốc trước đây. Đây là lý do tại sao Tập và các Thái tử Đảng khác đều tin rằng chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Stalin vẫn còn có sự liên quan cao độ với thời đại ngày nay. Không chỉ là liên quan, mà còn mang ý nghĩa sống còn.
Tập đã khởi động một chiến dịch thanh lọc – một cuộc chiến chống lại các thế lực phản cách mạng – không có điểm kết thúc bởi vì càng đi thì cái đích đến không tưởng về mặt ý niệm của chủ nghĩa cộng sản hoàn hảo lại càng bị đẩy ra xa hơn một chút.
Không có mục tiêu chính sách theo nghĩa mà một nhân viên ngân hàng Wall Street hoặc công chức ở Canberra có thể hiểu được, theo kiểu tính hiệu quả của thị trường năng lượng ở đây, hoặc đè nén hệ số Gini ở kia. Thay vào đó, đây là cách để khôi phục sinh lực và sức sống của triều đại.
Chính trị là cứu cánh.
Đây là những gì Mao và Stalin hiểu rõ hơn bất kỳ đồng chí nào của họ. Đây cũng là toàn bộ ý nghĩa của công trình Phục Hưng Đỏ của Tập Cận Bình. Và nó giải thích vì sao tiến trình chính trị mang màu sắc cực đoan này sẽ không dừng lại ở Đại Hội 19.
Điều đó đưa chúng ta đến tiêu đề của hội thảo này.
Những nhà thiết kế tâm hồn
Trong buổi gặp mặt đầu tiên của nhóm làm việc trong tòa nhà này, tôi hỏi lãnh đạo nào trên thế giới đã ví von nghệ sĩ và nhà văn là “nhà thiết kế tâm hồn.”
Hình ảnh ngôn từ này có phải là sự sáng tạo của Stalin, Mao hay là một ai khác?
Nếu bạn nghĩ đó là Stalin, bạn đã đúng.
“Việc tạo ra tâm hồn quan trọng hơn sản xuất xe tăng… Và do đó, tôi nâng ly chúc mừng các nhà văn, những nhà thiết kế tâm hồn “.
Đối với tôi, đây quả là một trong những phép ẩn dụ vĩ đại của chủ nghĩa toàn trị: một cỗ máy được thiết kế để tạo nên sự thống nhất hoàn toàn giữa nhà nước, xã hội và cá nhân.
Cỗ máy toàn trị hoạt động theo một lộ trình đã định sẵn. Nó phủ nhận sự tồn tại của ý chí tự do và bác bỏ các giá trị “trừu tượng” như “sự thật”, tình yêu và sự đồng cảm. Nó không chấp nhận sự tồn tại của Thượng Đế, không chịu quy phục bất cứ luật lệ nào và không hướng tới mục tiêu nào thấp hơn là nhào nặn lại tâm hồn con người.
Câu trên được trích dẫn từ bài phát biểu nổi tiếng của Stalin tại tư gia của đại văn hào Maxim Gorky để chuẩn bị cho Đại hội đầu tiên của Hội nhà văn Liên Xô vào tháng 10 năm 1932. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của cuộc Cách mạng Văn hóa và nạn đói lớn dưới thời Stalin – chính là nguyên mẫu cho cuộc Cách mạng Văn hóa và nạn đói lớn dưới thời Mao – trong lúc chuẩn bị xảy ra cuộc Đại Thanh
Trừng dưới thời Stalin.
Đối với Stalin, Lenin và những người theo tư tưởng tiền Leninist của Nga hồi thế kỷ 19, giá trị của văn học và nghệ thuật hoàn toàn là công cụ. Không có thứ gì gọi là “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Trong hệ tư tưởng của họ, thơ ca không có giá trị nội tại ngoài mục đích truyền bá cho quần chúng và thúc đẩy sự nghiệp cách mạng.
Hoặc theo ngôn ngữ kỹ thuật của Người đàn ông thép – Joseph Stalin – văn học và nghệ thuật không gì khác hơn là những chiếc bánh răng trong cỗ máy cách mạng.
Nhưng nếu câu trả lời của bạn là Mao Chủ Tịch, bạn cũng vẫn đúng. Mao đã mở rộng phép ẩn dụ của Stalin một thập kỷ sau đó trong bài phát biểu nổi tiếng tại Diễn đàn Văn học và Nghệ thuật Diên An vào tháng 10 năm 1942 và được xuất bản (dưới dạng tài liệu được chỉnh sửa rất nhiều) một năm sau đó.
“Mục đích của chúng ta là đảm bảo rằng văn học và nghệ thuật phải phù hợp với toàn bộ cỗ máy cách mạng trong vai trò một bộ phận cấu thành, chúng vận hành như những vũ khí mạnh mẽ để đoàn kết và giáo dục nhân dân và tấn công và tiêu diệt kẻ thù cũng như giúp mọi người chiến đấu với kẻ thù bằng cả trái tim lẫn khối óc.”
Đây là khi Mao nói trắng ra rằng không có thứ gọi là chân lý, tình yêu hay giá trị nghệ thuật trừ phi những khái niệm trừu tượng này có thể được đưa vào sự phục vụ thực tiễn của chính trị.
Một cách quan trọng, với ý nghĩa đương đại, những diễn văn của Mao về văn học và nghệ thuật cũng là cách ông khởi đầu cho đợt Chỉnh Phong Diên An – cuộc thanh trừng có hệ thống lớn đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đây là một dự án tạo áp lực đồng đẳng và tra tấn được thiết kế trước tiên để thanh trừng những người đồng chí của Mao, và sau đó khắc sâu hệ tư tưởng cộng sản vào tâm trí của hàng trăm ngàn sinh viên và trí thức có lý tưởng đã đổ xô đến Diên An trong cuộc kháng chiến chống Nhật.
Quan trọng là Đảng Cộng Sản chưa bao giờ tìm cách “thuyết phục”, mà chủ yếu là dùng biện pháp “điều kiện”. Bằng cách tạo ra một hệ thống hoàn toàn khép kín, kiểm soát tất cả những động lực thúc đẩy hoặc những yếu tố gây thoái chí, và “phá vỡ” các cá nhân về mặt vật lý, xã hội và tâm lý, Đảng đã phát hiện ra rằng họ có thể điều khiển tâm trí con người giống như cách Pavlov đã huấn luyện, tạo ra những phản xạ có điều kiện đối với các con chó trong phòng thí nghiệm ở Mát-x-cơ-va vài năm trước.
Đó là lần đầu tiên mà người của Mao đặt ra thuật ngữ “tẩy não”. Bản thân Mao thích dùng phép ẩn dụ luyện kim của Stalin. Ông ta gọi nó là “tôi luyện”:
“Nếu muốn hòa mình vào quần chúng, thì phải quyết tâm trải qua một quá trình tôi luyện dài, thậm chí là rất đau đớn.”
Bài nói chuyện của Mao ở Diên An về văn học và nghệ thuật đã biến mất và sau đó hồi sinh và tái bản khắp mọi nơi khi bắt đầu Cách mạng Văn Hóa – đây là hành động táo bạo và thành công nhất của biện pháp “định hướng và nhào nặn xã hội” mà thế giới từng chứng kiến.
Còn nếu câu trả lời của bạn là Tập Cận Bình, một nhân vật gần gũi nhất với chúng ta ngày nay, bạn cũng vẫn đúng.
Chủ tịch Tập Cận Bình đã có một bài phát biểu tại Diễn Đàn Văn Học và Nghệ thuật Bắc Kinh diễn ra vào tháng 10 năm 2014. Diễn đàn này được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 72 năm Diễn đàn về văn học và nghệ thuật tại Diên An thời Mao.
Tập Cận Bình cho rằng cần phải đưa trở lại những nguyên tắc của chủ nghĩa Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, trong đó văn học và nghệ thuật chỉ nên tồn tại để phục vụ chính trị. Khái niệm “chính trị” ở đây không phải là nói về việc thực thi một cách thẳng thắn quyền lực tổ chức và ra quyết định mà chúng ta biết, mà nói về một dự án toàn trị nhằm tạo ra sự thống nhất về ngôn ngữ, tri thức, suy nghĩ và hành vi để theo đuổi đến một cái đích không tưởng.
“Nghệ thuật và văn chương là công trình kỹ thuật để nhào nặn ra tâm hồn con người, những người lao động nghệ thuật và văn chương chính là những nhà thiết kế tâm hồn.”
Giống như phiên bản Mao, bài phát biểu của Tập trên diễn đàn văn học và nghệ thuật chỉ được xuất bản một năm sau đó.
Và cũng giống như bài phát biểu của Mao, phiên bản được xuất bản không thừa nhận rằng nhiều phần của bài phát biểu đã được thêm, bị xóa và sửa đổi – để phản ánh các mệnh lệnh chính trị của thời đại.
Giống như Stalin và Mao, bài phát biểu của Tập đánh dấu một chiến dịch chỉnh lý của Đảng Cộng sản, bao gồm một nỗ lực toàn diện nhằm nâng cao vị thế của các nhà lãnh đạo đến mức độ sùng bái. Không có bước nào trong vũ đạo của Đảng Cộng Sản diễn ra một cách tình cờ.
Cần lưu ý ở đây rằng khi Mao tập hợp lực lượng vào năm 1942, ông ta đã sử dụng khẩu hiệu của chủ nghĩa yêu nước, bởi vì lý tưởng cộng sản khi đó hoàn toàn chưa có sức mạnh lôi kéo.
Ngày nay cũng không có gì khác biệt. Tập Cận Bình phát biểu:
“Trong những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội với đặc tính Trung Quốc, giá trị sâu sắc nhất, cơ bản nhất và lâu dài nhất là chủ nghĩa yêu nước. Nghệ thuật và văn học hiện đại của chúng ta cần lấy chủ nghĩa yêu nước làm niềm cảm hứng, hướng dẫn người dân thiết lập và tuân thủ các quan điểm đúng đắn về lịch sử, dân tộc, đất nước và văn hóa.”
Và những lời cảnh báo cũ chống lại chủ nghĩa cấp tiến phương Tây cũng không hề thay đổi.
Đối với Lê-nin, Stalin, Mao và Tập, từ ngữ không phải là phương tiện của lý lẽ hay để thuyết phục. Chúng là những viên đạn. Từ ngữ là vũ khí để xác định, cô lập và tiêu diệt đối thủ. Và nhiệm vụ tiêu diệt kẻ thù ấy là không có hồi kết. (Thật xứng đáng để có buổi thảo luận riêng về chiến lược của Mặt trận Thống nhất – nhưng tôi xin dành lại vào một ngày khác)
Không có điểm kết thúc trong cuộc tìm kiếm sự thống nhất và bảo vệ chế độ đối với Tập, cũng như với Stalin và Mao.
Tập Cận Bình sử dụng cùng một khuôn mẫu ý thức hệ để mô tả vai trò của các “nhân viên truyền thông”, giáo viên, và các học giả ở đại học. Họ đều là những người kỹ sư phục tùng trong khuôn khổ ý thức hệ và là bánh răng trong bộ máy cách mạng.
Trong số nhiều việc mà các nhà lãnh đạo hiện đại của Trung Quốc đã làm – bao gồm quản lý sự bùng nổ lớn nhất về cấp tiến hóa thị trường và thành tựu xóa đói giảm nghèo lớn nhất mà thế giới từng chứng kiến, những kẻ chiến thắng trong các cuộc đấu đá nội bộ đã duy trì khát vọng toàn trị trong việc thiết kế tâm hồn con người để hướng họ tới điểm đến không tưởng luôn luôn thay đổi và ngày càng xa vời.
Điều này không có nghĩa là Trung Quốc đã không thể trở nên khác đi. Nền chính trị tinh hoa từ sau cái chết của Mao cho đến thảm sát Thiên An Môn đã là một cuộc cạnh tranh thực sự giữa các ý tưởng.
Nhưng ý thức hệ đã chiến thắng trong cuộc cạnh tranh đó.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng cộng sản cầm quyền duy nhất trên thế giới mà chưa bao giờ đoạn tuyệt với tư tưởng Stalin, ngoại trừ phần nào Bắc Hàn. Bức chân dung cao sáu mét của Stalin đã đứng cạnh Marx, Engels và Lenin tại Quảng trường Thiên An Môn mãi cho đến tận đầu thập niên 1980, khi mà các bức chân dung đó được di chuyển vào trong nhà.
Trong một thời gian dài, tất cả chúng ta đều yên thân nghĩ rằng khát vọng ý thức hệ này chỉ tồn tại trên giấy, là lời nói nơi đầu môi chót lưỡi, trong khi mà 1,4 tỷ công dân Trung Quốc đã bắt tay vào công việc xây dựng gia đình, cộng đồng và tìm kiếm tri thức và thịnh vượng.
Tuy vậy, nó không chỉ là lời nói suông, mà nhiều hơn thế. Từ năm 1989, Đảng CS đã xây dựng lại chính nó xoay quanh những gì mà dự thảo Luật An ninh Quốc gia gọi là “an ninh ý thức hệ”, bao gồm cả việc tự bảo vệ mình trước “sự xâm nhập của văn hóa tiêu cực”.
Bộ máy tuyên truyền và an ninh – như văn và võ, sách và kiếm, cây bút và khẩu súng – một lần nữa lại không thể tách rời. Trong Hội nghị công tác truyên truyền quốc gia vào ngày 9 tháng 8 năm 2013, cũng là lần đầu tiên Tập Cận Bình chủ trì hội nghị này, ông ta phát biểu rằng: Các nhà lãnh đạo Đảng phải “dám rút gươm ra” để đảm bảo rằng “các chính trị gia nắm vai trò điều hành các tờ báo”.
Giờ đây, Tập đã đẩy ý thức hệ lên hàng đầu vì nó cung cấp một khuôn mẫu cho việc thanh lọc và lấy lại quyền kiểm soát đối với đảng tiên phong, và qua đó là đối với cả đất nước.
Theo quan niệm của Tập, cái giá của việc đi lạc quá xa khỏi con đường của chủ nghĩa Mao và Stalin là sự suy tàn của triều đại và sụp đổ tất yếu. Điều này được nhiều người trong đội ngũ thái tử đỏ đồng tình.
Tất cả mọi thứ Tập Cận Bình nói với tư cách lãnh đạo, và tất cả mọi thứ tôi có thể xâu chuỗi lại từ lý lịch của ông ta cho thấy ông ta cực kỳ nghiêm túc về dự án tổng thể này.
Khi nhìn lại, chúng ta lẽ ra đã có thể dự đoán được điều này thông qua các đoạn quy chiếu về chủ nghĩa Mao và Stalin mà Tập đưa ra trong lời phát biểu khai mạc khi trở thành Chủ tịch nước vào tháng 11 năm 2012.
Điều này được làm rõ hơn trong chuyến công du đầu tiên với tư cách là Tổng bí thư Đảng tới miền Nam vào tháng 12 năm 2012, khi Tập Cận Bình tới đặt vòng hoa tại đền thờ của Đặng Tiểu Bình tại Thâm Quyến nhưng lại đảo ngược thông điệp của Đặng. Ông ta quy kết sự sụp đổ của Liên Xô là do đã không ai “đủ mạnh mẽ” đứng lên chống lại Gorbachev và điều này là do các đảng viên đã bỏ bê ý thức hệ. Đây là lúc ông đưa ra lời cảnh báo rằng chúng ta không được quên Mao, Lenin hay Stalin.
Vào tháng 4 năm 2013, Văn phòng Trung ương Đảng, được điều hành bởi cánh tay phải của Tập, Lật Chiến Thư, đã gửi đi một chỉ thị khét tiếng cho tất cả các tổ chức đảng cấp cao.
Văn kiện số 9 này có tên là “Thông cáo về tình trạng hiện tại trong lĩnh vực tư tưởng” đặt ý tưởng “lan truyền tư tưởng trên mặt trận văn hóa là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất”. Tài liệu này đòi hỏi cán bộ phải khơi dậy “nhiệt huyết của quần chúng” và tiếp tục “đấu tranh quyết liệt” chống lại các “xu hướng sau trái” sau đây:
- Nền dân chủ lập hiến phương Tây – là “một nỗ lực nhằm làm suy yếu giới lãnh đạo hiện tại”;
- Các giá trị phổ quát về quyền con người – một nỗ lực làm suy yếu nền tảng lý thuyết của sự lãnh đạo của đảng.
- Xã hội dân sự – một “công cụ chính trị” của các lực lượng phương Tây chống Trung Quốc, phá hủy nền tảng xã hội của đảng cầm quyền.
- Chủ nghĩa Tân cấp tiến – Những nỗ lực do Hoa Kỳ lãnh đạo để “thay đổi hệ thống kinh tế cơ bản của Trung Quốc”.
- Tư tưởng về báo chí của phương Tây – tấn công vào quan điểm Marxist về tin tức, cố gắng để “tạo ra một khe hở để thâm nhập vào hệ tư tưởng của chúng ta”.
- Chủ nghĩa hư vô lịch sử – cố gắng làm xói mòn lịch sử đảng, “phủ nhận tính tất yếu” của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc.
- Đòi hỏi cải cách và mở cửa – không được tiếp tục tranh cãi về việc cải cách có cần phải đi xa hơn không.
Không có âm mưu của chủ nghĩa cấp tiến phương Tây, Đảng sẽ mất đi lý do tồn tại. Khi đó sẽ không cần phải duy trì một chính đảng tiên phong. Tập Cận Bình cũng có thể để cho đảng của mình chuyển hóa một cách hòa bình.
Chúng tôi biết văn kiện này là xác thực bởi vì nhà báo Trung Quốc đã công khai nó trên internet, Cao Du (Gao Yu), đã bị bắt và con của cô bị đe dọa với những điều không thể tưởng tượng được. Sự đe dọa đối với con trai của cô đã khiến cô phải lên truyền hình đọc lời thú tội theo phong cách của thời Cách mạng Văn hóa.
Vào tháng 11 năm 2013, Tập Cận Bình tự bổ nhiệm mình làm người đứng đầu Ủy ban An ninh Quốc gia Trung ương – một cơ quan mới được thành lập để chống lại “các thế lực cực đoan và những thách thức về ý thức hệ đối với nền văn hóa đến từ phương Tây”.
Tuy nhiên, ngày nay, Internet mới là chiến trường chủ đạo. Chủ quyền trên không gian mạng là tất cả.
Kết luận
Điểm mấu chốt về hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản – sợi chỉ xuyên suốt từ Lê-nin qua đến Tập Cận Bình, chính là Đảng đã và luôn tự xác định là họ ở trong tình thế đấu tranh không ngừng với các thế lực “thù địch” của chủ nghĩa cấp tiến phương Tây.
Tập Cận Bình đang rất nghiêm túc trong phát ngôn và hành động quyết đoán trong việc tiến hành một dự án kiểm soát hoàn toàn về ý thức hệ ở bất cứ nơi nào có thể. Tập đã nói với “quần chúng thanh niên” trong bài phát biểu vào ngày Quốc Tế lao động, tháng 5 năm 2015 về một tầm nhìn đòi hỏi tất cả người dân Trung Quốc phải “thống nhất ý chí như một bức tường thành vững chãi”. Họ cần phải “tôi luyện bản thân”, Tập sử dụng một phép ẩn dụ được cả Stalin và Mao ưa thích.
Không có sự mơ hồ nào trong kế hoạch của Tập. Chúng ta thấy điều đó trong mọi thứ ông ta làm – kể cả là trong một thể chế vốn không minh bạch và rất lươn lẹo – chúng ta có thể thấy trong lời nói của ông ta.
Tập không phải là người phát minh ra dự án ý thức hệ này nhưng ông đã hồi sinh nó. Lần đầu tiên kể từ Mao, chúng ta có một nhà lãnh đạo nói và hành động đúng như niềm tin và ý định của mình.
Ông ta đang thúc đẩy hệ tư tưởng cộng sản vào thời điểm mà ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản này không còn hấp dẫn như bất kỳ thời điểm nào trong suốt 100 năm qua. Tất cả những gì còn lại là một thứ ý thức hệ của quyền lực, được tô vẽ bằng chủ nghĩa yêu nước nhưng điều đó không có nghĩa là nó không thể hoạt động.
Tập đã cho thấy rằng sự hứa hẹn về khả năng lật đổ toàn trị của Internet có thể bị đảo ngược rồi. Trong khoảng thời gian 5 năm, với sự hỗ trợ của khoa học dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, Tập đã biến Internet từ một công cụ dân chủ hóa thành một công cụ kiểm soát toàn diện, mọi lúc mọi nơi. Cuộc hành trình đến cái đích không tưởng (Utopia) vẫn tiếp tục nhưng trước tiên chúng ta phải vượt qua không gian mạng đầy rẫy phức tạp để đánh bại các thế lực phản cách mạng.
Sự táo bạo của dự án này là rất đáng kinh ngạc. Những hàm ý của nó cũng thật ngoài sức tưởng tượng.
Thách thức đối với chúng ta là dự án kiểm soát ý thức hệ không dừng lại ở biên giới Trung Quốc. Nó được đóng gói để theo sát các sinh viên, khách du lịch, người di cư và đặc biệt là tiền của Trung Quốc. Nó chảy qua các kênh của mạng Internet Hoa ngữ, thâm nhập vào tất cả các không gian văn hóa và truyền thông lớn trên thế giới và nói chung là bắt kịp và thậm chí còn đi trước cả những lợi ích toàn cầu đang ngày một gia tăng của Trung Quốc.
Theo suy nghĩ của tôi, nếu bạn là người trong lĩnh vực tình báo, quốc phòng hay quan hệ quốc tế; hoặc thương mại, chính sách kinh tế hoặc điều tiết thị trường; hoặc nghệ thuật, giáo dục đại học hoặc bảo tồn hệ thống dân chủ – nói cách khác là nếu bạn có liên quan tới bất cứ vấn đề có tầm vóc nào về mặt chính sách – thì bạn sẽ cần kiến thức ứng dụng về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông. Và có lẽ, sau Đại hội lần thứ 19 của ĐCSTQ, bạn sẽ cần biết về cả “tư tưởng Tập Cận Bình”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét