khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Năm, 16 tháng 11, 2017

Viết Báo Ngoại Ở Sài Gòn - Tác giả Nguyễn Quốc Trụ




Khoảng năm 1988, do sinh kế, gia đình tôi mở ngay một sạp báo trước ngõ. Chủ nhân đích thực, ông cán bộ nhà kế bên. Như một cách giữ chỗ, trước khi về hưu, và cũng muốn giúp đỡ gia đình ngụy. Cư xá nơi tôi ở vốn thuộc nhà nước cũ, đa số là công chức có nghề chuyên môn, được chính quyền mới cho lưu dụng, sau ba ngày cải tạo.

Đó là những chuyện ngay sau ngày 30 tháng Tư, 1975.

Thời điểm 1988-89 đã có chủ trương cởi trói cho những nhà văn cách mạng, có thể nhờ vậy, văn chương, văn nghệ sĩ nguỵ cũng được ăn theo. Một số sách trước 1975 nay thấy tái bản, dưới tên khác. Do biết chút ngoại ngữ, tôi được một người quen làm nghề xuất bản mướn dịch, những tác phẩm, thí dụ như của nhà văn y sĩ người Anh, Cronin. Rồi một người quen, trước 1975 cũng có viết lách, lúc đó làm chân sửa mo-rát cho một nhà xuất bản nhà nước, cho biết, ông chủ của anh muốn tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, dịch Hemingway, của tôi.

Tới gặp, ông cho biết cần phải sửa. Thứ nhất, bản dịch của tôi dùng nhiều tiếng địa phương, như "bồ tèo", "xập xệ"... Thứ hai, có rất nhiều chỗ dịch sai. Tôi coi lại, quả như thế thật.

Trước 1975, sách dịch chạy theo thị hiếu người đọc, theo nhu cầu thương mại. Cứ thấy một tác giả ăn khách là đua nhau dịch. Hồi đó, tôi làm cho nhà xuất bản Vàng Son của ông Nhàn, một chi nhánh nhà xuất bản Sống Mới. Nhà in số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần nhà tôi, là của linh mục Cao Văn Luận. Trước đó, cuốn Ngày Dài Nhất do tôi dịch cũng đã đụng với một nhà xuất bản khác. Thế là, dịch chối chết, cốt sao ra trước kẻ địch! Rồi tới Hemingway đang được mùa. Huỳnh Phan Anh, ông bạn tôi "chớp" ngay Chuông Gọi Hồn Ai. Tôi "vớ" thế hệ bỏ đi, tuy Mặt Trời Vẫn Mọc! Ngồi ngay tại nhà in, dịch tới đâu, thợ sắp chữ tới đó.

Đọc lại, ngượng chín người. Thí dụ như câu: cuối năm thứ nhì (của cuộc hôn nhân), at the end of the second year, tôi đọc sao, thành: cuối đệ nhị thế chiến, at the end of the second war!

Sau đó, tôi làm việc với nhà xuất bản, sửa lại bản dịch, dưới sự "kiểm tra" của Nhật Tuấn, ông em của Nhật Tiến. (Làm việc ở đây không có nghĩa nhà xuất bản trả lương, nhưng tôi có nhận một số tiền tạm ứng, tính vào nhuận bút cuốn sách, khi tái bản). Lâu lâu ghé trụ sở "phía Nam", của nhà xuất bản, tôi có lần được biết mặt một số nhà văn Miền Bắc, trong số đó có Nguyễn Khải. Cũng ở nơi đây, tôi gặp một số người viết trẻ như Đỗ Trung Quân, khi đó làm chân chạy việc cho nhà xuất bản nọ. Rồi cứ thế, tôi biết thêm một số anh em khác, như Nguyễn Đông Thức, con trai bà Tùng Long (nhà văn, chủ nhân tạp chí Phụ Nữ Diễn Đàn tại Sài-gòn trước 1975) lúc đó làm cho tờ Tuổi Trẻ. Rồi Đoàn Thạch Biền, đã viết ở Văn, dưới bút hiệu Nguyễn Thanh Trịnh. Họ đều biết tôi, trước 1975.
Tôi không nhớ rõ, ai trong số họ, đề nghị tôi viết, cho tờ Tuổi Trẻ, mục điểm sách. Bài đầu tiên là về cuốn Thám Tử Buồn. Một truyện dịch từ một tác giả Liên-xô. Thảm cảnh nước Nga sau đổi mới. Băng hoại tinh thần, đạo đức đưa đến tội ác. Có những cảnh như con cháu đưa bố mẹ tới huyệt, chưa kịp chôn, đã tranh nhau chạy về nhà giành giật của cải, gia tài. Bố mẹ trẻ ham chơi, bỏ con chết đói: khi khám phá, miệng đứa bé còn con gián chưa kịp nuốt thay cho sữa. Cuốn tiếp theo, là Ngôi nhà của những hồn ma, của Isabel Allende. Tới cuốn thứ ba, là bị đụng. Một cuốn của Hoàng Lại Giang, "ông chủ" bất đắc dĩ của tôi. Bài viết, đọc lại trên báo, tôi thấy không được. Trong có từ "ngụy".
Thật tình mà nói, không biết do tôi, hay đã bị sửa. Có thể do tôi. Bởi vì vào thời điểm đó, ngụy là một từ chúng tôi rất ưa dùng, nhất là khi được ngồi với một hai đấng quan cách mạng. Nhưng một khi xuất hiện chính thức trên một bài viết như thế, vấn đề lại khác hẳn. Tôi ngưng viết cho Tuổi Trẻ.
Một bữa đang đứng bán báo, Đ. ghé. Tôi quen anh qua Huỳnh Phan Anh, cả hai cùng dân nhà giáo, trước 1975. Lúc này anh làm cho tờ Tuổi Trẻ. Chuyện đôi câu, anh đưa tôi mớ tiền. Hỏi, tiền gì. Tiền nhuận bút, đưa trước. Hỏi, báo nào? Anh mỉm cười, báo hải ngoại!

Hóa ra là, lúc đó có chủ trương, nhà nước làm "báo chui", ở hải ngoại, do mấy quan cách mạng ở trong nước cầm chịch. Bài viết, theo Đ., tha hồ đập nhà nước, y chang báo phản động ở hải ngoại, chắc vậy! Khó mà nói được, đây là nhằm giải tỏa áp lực ở trong nước, hay nhân cơ hội tóm bắt thành phần chống đối.

Đúng thời gian này, một khách hàng quen sạp báo nhờ kiếm giùm bản dịch tiếng Pháp Tội Ác và Trừng Phạt của Dostoevsky. Kiếm được rồi, như để trả ơn, ông khách úp mở chìa cho xem một tờ Time được ngụy trang bằng cái vỏ bọc là trang bìa tờ Đại Đoàn Kết. Tôi hỏi mượn. Trong số báo có bài tiểu luận: Sách, những đứa con của trí tưởng (Books, children of the mind).

Bài trên Time là nhân vụ cháy một thư viện nổi tiếng ở Nga, hình như thư viện thành phố St. Petersburg. Thiệt hại, theo tác giả, không thể tưởng tượng, và "không thể tha thứ" được. Ông tự hỏi, tại sao lại xẩy ra một chuyện "quái đản" như thế. Rồi ông tự giải thích: cái nước Nga nó vốn vậy. Chỉ ở nơi đó mới xẩy ra những chuyện tréo cẳng ngỗng như thế. Ông dẫn chứng: thời gian thành phố bị quân đội Đức Quốc Xã vây hãm 900 ngày, cuộc vây hãm dài nhất lịch sử hiện đại; trong khi nhân dân thành phố lả vì đói và lạnh, tiếng thơ Puskhin vẫn ngân lên từ đài phát thanh thành phố cho cả nhân dân Nga cùng nghe. Nhưng theo ông, cũng chính nước Nga là quốc gia đầu tiên, dưới thời Nữ hoàng Catherine, đã đưa ra lệnh kiểm duyệt báo chí, và đầy văn nghệ sĩ đi Siberia... Đọc bài báo, lén lút, những khi vắng khách, nhìn những cuốn sách đang nằm trên sạp, tôi chợt nhận ra một điều: chúng đều mới tái sinh, từ đống tro than, là cuộc phần thư 1975. Cuốn Khách lạ ở thiên đường, của Cronin đang nằm kia, vốn đã được dịch. Nhiều cuốn khác nữa, chúng đang nhìn tôi mỉm cười: Hà, tưởng gì, chúng mình lại gặp nhau!

Tôi viết về nỗi vui tái ngộ, về cuộc huỷ diệt trước đó. Về những đứa con của trí tưởng, có khi cần phải được tẩy rửa bằng "lửa". Tuy đau xót, nhưng đôi khi thật cần thiết. Nhân đó, tôi viết về những tác giả đang nổi tiếng, và tiên đoán, một cuộc phần thư "thứ nhì" sẽ xẩy ra, do chính họ, tự nguyện, nếu muốn lịch sử văn học Việt Nam lại có một cuộc tái sinh!

Đ. nhận bài hí hửng mang về. Đâu hai ba bữa sau, anh trở lại, trả bài viết, lắc đầu: không được! Nhưng thôi, tiền tạm ứng, biếu anh luôn!

Hỏi, anh cho biết, ông chủ nhiệm của tờ báo "hải ngoại", sau khi đọc bài viết, đã đi gặp thủ trưởng, yêu cầu: nếu cho đăng những bài như thế này, phải cấp cho ông một "cái bùa hộ mệnh", chứng nhận nhà nước cho phép ông làm chủ nhiệm hoặc chủ bút một tờ báo "phản động"! Nếu không sau này, cả ông lẫn người viết đều đi tù!

Lệnh "miệng" thì được, bố ai dám thò tay ký một lá bùa "quái đản" như thế!

Đoàn Thạch Biền loáng thoáng nghe, chạy lại: để tôi, đăng trên "báo nhà", tờ Công Luận, trụ sở ở khu thuộc nhà thờ Đức Bà, đối diện Bưu Điện thành phố, nơi có mấy quán cà-phê, đám văn nghệ sĩ thường la cà, tụ tập. Nhưng rồi cũng lắc đầu. Người viết thử lại một lần nữa, với tờ Kiến Thức Ngày Nay, trụ sở lúc đó ở đường Trần Hưng Đạo. Tuần sau trở lại, gặp một anh thư ký trẻ măng, kính cận dầy cộm. Anh nhìn, ngạc nhiên ra mặt: ông là ai mà tôi chẳng biết? Chẳng nghe nói? Anh giải thích: Thường ở đây, bài chỉ cần đánh máy hai bản, một lưu, một đưa sắp chữ. Bài của ông, phải ba. Một đưa qua mấy anh bên Hội Nhà Văn thành phố, để mấy anh quyết định, nếu cần xin ý kiến thành uỷ! Các anh cho biết, cho đăng, nhưng phải sửa lại rất nhiều.

Tôi xin lại bài viết.

Bài sau đó, nằm trong tay một trong số những người thuộc ban chủ biên tờ Tuổi Trẻ. Anh nói: tôi giữ lại đây, hy vọng sau này có dịp đăng. Như một cách giúp đỡ, anh đề nghị, vì tôi có sạp báo, mỗi tuần anh nhờ tôi điểm hết những đầu sách mới ra, theo kiểu tóm tắt nội dung, không cần phê bình. Tòa báo sẽ cộng giá bán những cuốn sách, thành tiền nhuận bút.

Liền sau đó, tôi gặp lại một người bạn, trước là nhiếp ảnh viên cho một hãng tin nước ngoài. Qua anh, gia đình chúng tôi thực hiện chuyến đi dài, chạy trốn quê hương.

Viết lại câu chuyện, tôi bỗng nhớ những ngày làm việc tại nhà xuất bản nọ. Ngoài Nhật Tuấn, và Hoàng Lại Giang tôi có dịp trò chuyện, những người khác đều không biết tôi, và tôi cũng chẳng biết họ. Nghĩa là hai bên chẳng có chuyện gì dể nói. Nhớ thái độ cởi mở, quí mến, và thân thiện, của mấy người bạn trẻ. Những lời ân cần của anh phụ trách tờ Tuổi Trẻ (hình như tên Thức, nhưng không phải Nguyễn Đông Thức. Thời gian còn Kim Hạnh).

Những người viết Miền Nam trước 1975, ở lại, hình như đều viết trở lại. Tôi có lẽ là người đầu tiên được một nhà xuất bản nhà nước đề nghị tái bản, tuy là bản dịch, tác phẩm Mặt Trời Vẫn Mọc.

Trường hợp Sông Côn Mùa Lũ, của Nguyễn Mộng Giác, một tác giả hải ngoại, được xuất bản (tái bản) ở trong nước làm nhớ tới nhận định của ký giả người Mỹ David Remnick, như ở trên đã nói: Đâu cần phải biết ơn kẻ trộm!

Có người đặt vấn đề, về ý nghĩa một bộ sách như Sông Côn Mùa Lũ, bầy kế bên những tác phẩm thuộc dòng chính thống như Lênin toàn tập, Nhật Ký Trong Tù... Ở đây, theo tôi, nếu có sự thất thế, tủi nhục, thì phần lớn là thuộc về kẻ trộm, không phải người mất trộm!

Kẻ mất trộm, không chỉ là tác giả cuốn sách.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét