khktmd 2015






Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ chí thiện. Đại học chi đạo, tại Minh Minh Đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện. 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善。












Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2025

Từ Khúc Đêm nhạc Từ Công Phụng tại San Jose - 25.10. 2025 - Phần 2





Từ Khúc - Đêm nhạc Từ Công Phụng tại San Jose - 25-10 2025 - Phần 1





Pháp : Tòa nhà đầu tiên được xây dựng với hệ thống sưởi và điều hòa tự nhiên





Hội nghị COP 30 trong rừng Amazon và tiếng gọi "Bam!" "Bam!"





Tăng mãi lực cho người dân Mỹ, áp lực lớn với chính quyền Trump





Bán F-35 cho Ả Rập Xê Út, Mỹ gây "địa chấn ngoại giao" ở Trung Đông





Bắc - Nam Việt Nam: Nền Văn Hóa Khác Biệt Đến Kỳ Lạ





Trước PBTHQ Hùng Cao sau MC Nguyễn Ngọc Ngạn, cộng sản Việt Nam lại ăn bám dân VNCH để tuyên truyền?





Mỹ : Khi hồ sơ Epstein không dừng lại ở vụ án hình sự





Nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn chia sẻ chuyện "không về Việt Nam" và cuộc sống hiện tại?





GS Nguyễn Văn Tuấn, nhân tài đất Việt





Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

I WILL FOLLOW HIM. Pourcell y Mauriat. Dir.: Félix Redondo





Plácido Domingo, José Carreras, Dimash Qudaibergen, and HAUSER hợp ca My Way





The Dutch Tenors hợp ca Can't Help Falling In Love





Thuở Ấy Có Em, nhạc Huỳnh Anh





Som Sabadell flashmob - BANCO SABADELL





AMAZING FLASHMOB - Bolero Ravel / S.Bento Train Station - Porto (90 Years CMSM)





Madagascar: "Gen Z" revolution or military coup?





Russian Oil: At the Heart of the US-India Trade Showdown





CIA bí mật hoạt động tại Venezuela : Mỹ nối lại truyền thống can thiệp quân sự vào Châu Mỹ Latinh





Michel Jourdan, những điệp khúc còn mãi chưa quên





INSIDE GAZA : Góc nhìn từ bên trong cuộc chiến • RFI Tiếng Việt





Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2025

Xuôi theo dòng nước cùng nghệ sĩ piano Pháp-Rumani Dana Ciocarlie : từ sông Loire đến sông Cửu Long





Đô la mất giá : Hiện tượng không thể đảo ngược ?





Nhạc Nhật lời Việt : nguyên bản và phóng tác của bài "Bên nhau đêm này"





Cuba : 60.000 « nô lệ thời hiện đại » đằng sau những mác hàng xuất khẩu nổi tiếng thế giới





TT. Macron sẽ trình "bằng chứng khoa học" về giới tính của vợ tại tòa án Mỹ





Thanh Thúy và những kỷ niệm với nhạc sĩ Trúc Phương





Thứ Năm, 18 tháng 9, 2025

Nguyễn-Xuân Nghĩa: NIỆM KHÚC CUỐI….

 


Khi Cuộc Tình Đã Chết

Nhân khi khách đang ngâm câu “Bắc Du Ngũ Ngôn Khúc” của Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền, nôm na là phiêu du lên miền Bắc, người viết thừa cơ đóng cửa chẳng tiếp ai. Rồi oanh kích vào chuyện sống chết thế mà đạn lạc vào… vườn nhà.

***

Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, chúng ta gặp ông ta lần đầu khi Thúc Sinh lén thăm nàng Kiều bị Hoạn Thư nhốt trong Quan Âm Các mà chàng cóc dám cứu. Cái anh chàng đa tình - trò gì cũng biết hơi hơi chứ nết sợ vợ thì thuộc hàng cao thủ – chỉ biết thở vắn than dài, rồi buông lời ai oán:

Dẫu rằng sông cạn đá mòn,

Con tầm đến thác cũng còn vương tơ.

Lần cuối chúng ta gặp ông ta là khi Thúy Kiều tái hồi Kim Trọng và đổi duyên cầm sắt ra duyên cầm… cờ:

Khúc đâu đầm ấm dương hòa

Ấy là hồ điệp, hay là Trang sinh?

Khúc đâu êm ái xuân tình

Ấy hồn Thục đế, hay tình Đỗ quyên?

Trong sao, châu nhỏ doành quyên 

Ấm sao, hạt ngọc Lam Điền mới đông!

“Ông ta” đây là Lý Thương Ẩn, một nhà thơ đời Vãn Đường bên Tầu.

Khi gắn vào miệng Thúc Sinh lời thở than đến chết vì cuộc tình với nàng Kiều đang bị Hoạn Thư tập trung cải tạo trong Quan Âm Các, Tố Như đã mượn một bài Vô Đề của Lý Thương Ẩn:

Tương kiến thời nan, biệt diệc nan

Đông phong vô lực bách hoa toàn…

Với câu “thực” là 

Xuân tàm đáo tử ti phương tận

Lạp chúc thành hôi lệ thủy can…

Gặp nàng đã khó, xa nàng còn khó hơn nữa

Gió Đông kia bất lực, để trăm hoa tàn

Con tầm mùa Xuân đến chết vẫn còn nhả tơ

Ngọn nến sáp kia có thành tro thì lệ mới khô….

Nguyễn Du lấy thơ Lý Thương Ẩn để cho ta hình ảnh “con tầm đến thác vẫn còn vương tơ”. Sau này, Ngân Gian nữ sĩ cũng lấy câu kia để viết ra “đêm nay lệ nến rơi thành chữ”… 

Cái nghiệp tình của cả hai!

Vào đoạn cuối Truyện Kiều, Nguyễn Du lại mượn bài thơ đầy những điển cố của Lý Thương Ẩn để diễn tả cảnh Thúy Kiều gẩy đàn bên Kim Trọng. Đó là bài Cẩm Sắt, cây đàn gấm. Đấy cũng là một bài Vô Đề nhưng lấy tựa ở chữ đầu tiên:

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền

Nhất huyền nhất trụ, tứ hoa niên

Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp

Thục đế xuân tâm thác đỗ quyên

Thương hải nguyệt minh, châu hữu lệ

Lam Điền nhật noãn, ngọc sinh yên

Thử tình khả đãi thành truy ức

Chỉ thị đang thời dĩ vọng nhiên!

Nếu có gượng dịch thì ta có:

Năm chục tơ huyền những sợi duyên

Mỗi dây mỗi trụ nhớ hoa niên

Mộng sớm Trang sinh mơ con bướm

Lòng xuân Thục đế gửi chim quyên

Trăng chiếu biển xanh, tràn nước mắt

Ngọc ấm Lam Điền, bốc khói tiên

Tình này gợi mãi lên niềm nhớ

Hẹn tới kiếp sau nối ước nguyền!

Đấy chỉ là gượng dịch của thợ thơ này, chứ Tố Như kia mới là thợ trời!

Mà vì sao nhắc tới Lý Thương Ẩn? 

– Dạ, vì chán đời nên đạn lạc!

Tự Nghĩa Sơn, có hiệu là Ngọc Khê Sinh, Lý Thương Ẩn sinh năm 813 mất năm 858, là nhà thơ trác tuyệt thời Vãn Đường ngang hàng Ôn Đình Quân và Đỗ Mục, tài nghệ được Vương An Thạch (dạ, là 'Đường Tống bát đại gia', chứ không chỉ là Tể tướng bị bọn thủ cựu y ngu mà chửi om xòm) sánh với Đỗ Phủ. Chuyện ấy thật ra vô ích, nếu không nói thêm rằng ngày nay Tây phương lại đánh giá Lý Thương Ẩn rất cao và còn điểm ra nhiều ảnh hưởng của ông trong thơ, nhạc và phim Mỹ!

Chuyện đáng nói hơn vậy là trong thế giới ngày nay, Lý Thương Ẩn không là “curiosity” mà là một “celebrity”. 

Chẳng vì tứ thơ lãng mạn với hình ảnh trữ tình mà vì chữ tình. 

Ông nổi tiếng vì cứ hay tìm nỗi đoạn trường mà đi khi mê nàng đạo sĩ Tống Hoa Dương. Tội nặng với Ngọc Hoàng. Lại còn giỡn mặt tử thần và vuốt râu Hoàng Đế mà trồng cây si trước khuê phòng của hai cung phi là Lư Phi Loan và Khinh Phụng. 

Với mối tình éo le như vậy thì làm sao “loan phụng hòa minh” để yên bề gia thất? Vì vậy, thơ Lý Thương Ẩn mới chất ngất niềm u uẩn. Vịnh cây đàn sắt có năm chục dây, ông ngây ngây nhớ chuyện Trang sinh mơ mình hóa bướm, hay vua Thục đế mất nước mà thác ra con chim khóc hoài tiếng quốc quốc.

***

Bài này được viết khi tác giả bật máy gõ về cái chết của Mohammad Omar, tay Mullah cầm đầu tổ chức Taliban của xứ Afghanistan. 

Trong chốn người mù, thằng chột làm vua – nói vậy tại Thái Lan là vào tù vì tội khi quân khi vua Thái có một con mắt bằng thủy tinh – anh chàng chột mắt Omar là vua một cõi A Phú Hãn từ năm 1996. Cho tới khi bị Hoa Kỳ đánh bật khỏi Kabul vào cuối năm 2001. Omar được Mỹ treo giải trị giá 10 triệu đô la nhưng an toàn lẩn trốn bên Pakistan, rồi chết vì bệnh lao trong một nhà thương tại Karachi từ hai năm nay - mà chẳng ai hay! Hay thật….

Khi cái chết của Omar được xác nhận thì tổ chức Taliban lâm vòng khủng hoảng vì chuyện kế tục. Đấy là thời sự tuần này. 

Và người viết bật máy để gõ chuyện chó chết chưa hết chuyện mà chỉ sợ khách bên đình đòi mình viết về chuyện tương tự, là cái chết thật hay sống giả của Phùng Quang Thanh. Cho nên thấy nản! 

Thà là nhớ tới Nguyễn Du, Thúy Kiều hay những mối tình tuyệt vọng của Lý Thương Ẩn còn hơn. Đấy mới là niệm khúc cuối rất đáng niệm. Ít ra cũng được vài trống canh!


Pháp đề xuất cấm trẻ dưới 15 tuổi sử dụng mạng xã hội TikTok : "một đại dương rác thải "





Tổng thống Mỹ công du Anh : “Chủ nghĩa Trump” được chào đón hơn là cá nhân ông





Hạt nhân Iran và vai trò "bị lãng quên" của phương Tây





TT Trump đã toàn quyền điều khiển Cục Dự Trữ Liên Bang, rồi kinh tế Hoa Kỳ sắp tới sẽ ra sao?





Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2025

Đối thoại với nhà văn Bảo Ninh, tác giả Trần Hoài Thư

 

Anh quả là một nhà văn tài hoa chữ nghĩa. Có điều, một nhà văn có tài, không phải là tài ở những chuyện bịa đặt, phóng tác có chủ ý, để lường gạt những người ngây thơ nhẹ dạ, hay không có kinh nghiệm. Ông ta phải biết thành thật, cho chính ông, và độc giả của ông và cả kẻ từng thù địch với ông nữa.

Từ lâu, người ta đã chờ đợi những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam bằng ngòi bút trung thực, vượt khỏi định kiến, guồng máy, lập trường, từ những nhà văn miền Bắc. Tại sao là miền Bắc? Bởi vì, những người viết của miền Nam ít ra, đã thả giàn biểu lộ hầu hết những gì mà họ đã tham dự hay nhân chứng, mà không bị ràng buộc bởi bất cứ một ai, bất cứ một thế lực nào. Chính vì sự mong mỏi ấy, những tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, vân vân… đã được đón nhận từ trong nước, đến ngoại quốc, và cả người Mỹ lưu tâm về Việt Nam và đã được xem là hiện tượng. Trong số những tác phẩm này, tôi được đọc hai truyện dài: Ly thân của Trần Mạnh Hảo, và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tôi xin được góp ý về Nỗi buồn chiến tranh (NBCT) vì truyện này đã nhắc thường trực về những người lính thám báo VNCH, mà tôi là một thành viên. Hơn nữa NBCT hiện nay là một đề tài thảo luận sôi nổi trên internet, qua những Newsgroups và Usernet. Ngoài ra, truyện đã được dịch sang tiếng Anh (Bao Ninh, The Sorrow of War. Vietnamese original Hanoi, 1991; English translation London: Martin Secker & Warburg, 1993; New York: Pantheon), phổ biến trong các đại học Mỹ, tác động nhiều trong tâm trí của những người tuổi trẻ hải ngoại, không đủ khả năng đọc Việt ngữ. Nguyên bản bằng tiếng Việt đã được in ở Mỹ do Nam Việt xuất bản, Phạm Việt Cường viết tựa, với kết luận như sau: ”Nỗi buồn chiến tranh là một thành tựu văn học vô cùng lớn lao, là một tác phẩm sâu sắc nhất về chiến tranh Việt Nam từ trước đến giờ, và chắc chắn sẽ tồn tại lâu dài trong kho tàng văn học Việt Nam”

Thưa nhà văn Bảo Ninh,

Trước hết tôi phải cám ơn anh vì nhờ đọc Nỗi buồn chiến tranh tôi mới hiểu rõ hơn về tâm tư của một thế hệ và giai đoạn mà tôi cũng như anh là những người trong cuộc. Anh viết về sự đổ vỡ và phá sản bi thảm của tuổi trẻ miền Bắc trong cuộc chiến đấu mà chế độ từng nói là cuộc chiến đấu thần thánh chống Mỹ cứu nước. Anh đã kể về những đồi ma chập chùng ở miền cao nguyên nồng nặc tử khí. Lính Mỹ. Lính miền Nam. Lính miền Bắc. Anh viết về những chiếc T54 nghiến trên những người lính sư đoàn 18. Anh viết về những lưỡi dao găm thọc vào tim máu phụt thành tia vòi. Anh viết về nỗi tuyệt vọng của những người lính trinh sát qua Kiên, hay của những bè bạn của anh ta, đào ngũ, dao động, hoang mang cùng cực. Anh lại kể về trận đánh ở Ban Mê Thuột vào một trung tâm cảnh sát, cùng những người nữ cảnh sát viên thuộc hàng ngũ miền Nam, và nhất là sự có mặt hầu như ám ảnh suốt truyện về những toán thám báo. Anh đã tả lại một toán thám báo vào mật khu, bắt theo 3 cô gái, hãm hiếp và sau đó giết họ rồi vất xuống sông. Anh nêu đích danh tay chỉ huy là một trung úy.

Nói tóm lại anh đã lột tả trần trụi nỗi kinh hoàng của chiến tranh, không che đậy, giấu giếm. Ngoài ra anh cũng vén cái màn dối trá từ lâu đã bao trùm cả xã hội và tuổi trẻ miền Bắc. Ðó là điều hiếm có cho nền văn học trong chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thưa nhà văn Bảo Ninh,

Tôi đã rưng nước mắt trên những trang giấy về nỗi chán chường cùng cực của một thế hệ bị đẩy vào lò nướng, nhưng tôi không thể không phẫn nộ khi anh dùng nỗi buồn chiến tranh ấy để cố ý xuyên tạc bôi nhọ một hàng ngũ thất thế.

Xin đọc lại đoạn tả một trung úy thám báo bị phe các anh bắt làm tù binh: “Tên nom to con nhất trong bọn, mắt trái bị báng súng dộng lòi ra, máu hòa nước mưa nhuộm đỏ nửa mặt, đưa con mắt lành nhìn Kiên cười khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ởn. – Ba nhỏ đó trình quý anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi… Mấy nhỏ la khóc quá trời…” (NBCT, trang 51, 52). Rõ ràng anh có một trí óc sáng tạo có một không hai. Anh tốt nghiệp khóa 3 trường viết văn Nguyễn Du mà. Nhưng anh đã không hiểu gì về vai trò của thám báo. Nhiệm vụ của thám báo là dò thám, lấy tin. Trinh sát, viễn thám, thám báo, biệt kích, những danh xưng, dù có khác nhau, nhưng nhiệm vụ là phải tuyệt mật. Chúng tôi chỉ dùng tai và mắt để nghe ngóng và rình mò và báo cáo về Bộ Chỉ huy. Toán trưởng thường thường mang cấp bậc thiếu úy hay chuẩn úy. Riêng cấp bậc trung úy chỉ dành cho trung đội trưởng mà cấp số thường trên hai mươi người. Như vậy, không tên lính thám báo nào lại ngu độn đến nỗi xâm nhập vào một mật khu, lại bắt mang theo ba cô chị nuôi, để cho các anh theo dõi bắt lại. Riêng anh cho người chỉ huy là trung úy, thì rõ ràng anh có một chủ ý thấy rõ. Cứ tưởng tượng đến một nhóm bảy người dưới sự chỉ huy của một tên trung úy vào mật khu để bắt ba con mồi, thúc súng đằng sau, hét hò, bận bịu để mang ra khỏi rừng, giữa lúc quân chính quy các anh thì dầy đặc, rõ ràng là một câu chuyện hoang tưởng và xuyên tạc có chủ ý. Trung úy ở hàng ngũ chúng tôi cũng học nhiều trường, từ trường học, đến trường lính. Tối thiểu họ cũng có tú tài. Họ có học thức. Với cấp bậc trung úy, ít ra họ cũng có kinh nghiệm chiến trường. Họ không ngu độn như vậy đâu. Ngay lời nói của viên trung úy tù binh kia cũng đủ cho biết cái dối trá, phóng đại. “Ba nhỏ đó tụi này làm thịt cúng hà bá rồi. Mấy nhỏ la khóc quá trời”. Nội câu trả lời kia cũng đủ cho thấy cái chủ ý, cái căm thù hằn học, mà chỉ có những cai tù trong trại học tập mới dành cho những con người thất thế. Hễ là thầy giáo thì phải hãm hiếp nữ sinh. Hễ là sĩ quan tác chiến là phải mổ mật mổ tim nhân dân cách mạng. Thì ra đầu óc anh vẫn còn bị nhồi sọ bởi cái luận điệu tuyên truyền của chế độ. Hay cũng vì nhờ những đoạn này mà nhà nước đã cho NBCT được xuất bản và được cho phổ biến rộng rãi?

Cái tàn bạo trong cuộc chiến là lẽ dĩ nhiên. Tôi không khẳng định ai ai trong hàng ngũ miền Nam cũng đều là anh hùng quân tử. Tuy nhiên sự tàn bạo ấy anh đã vẽ nên không phải lúc, phải chỗ, không phải vai trò, khiến bất cứ người nào đã từng tham dự vào cuộc chiến cũng phải phì cười.

Xin anh hãy công bằng khi viết. Hơn nữa chính anh đã kể về người tù binh thám báo mời lính trinh sát các anh hút thuốc Ruby. Nịnh hay là một bản tính đôn hậu, chân thật, thân ái của những người trẻ tuổi miền Nam chúng tôi?

Thưa nhà văn Bảo Ninh,

Trong bất cứ một tập thể nào cũng có kẻ xấu người tốt. Tuy nhiên, tôi xin nói với anh một điều, chúng tôi có học, học từ tình yêu thương của Chúa và Phật, chứ không phải học từ Ban Tuyên huấn, từ ông Tố Hữu hay Chế Lan Viên, chỉ biết ngợi ca sắt máu, căm thù người cùng màu da như anh và tôi. Họ còn đấu tố cả cha mẹ họ huống hồ đối với những người khác hàng ngũ. Anh đã không can đảm để nói lên sự thật như Trần Mạnh Hảo đã nói trong Ly thân. Tại sao, sau chiến tranh, một nhà thơ trẻ tài ba – một thương binh cũng nguyên gốc trinh sát là Trần Khuất Nguyên, lại tìm được một người bạn tri kỷ cuối đời là một người thương binh thuộc hàng ngũ chúng tôi? Tại sao anh ta không có một người bạn nào khác trong một tập thể thắng trận là các anh?

Thứ hai, khi đề cập đến nỗi chán nản cực độ, anh đã cho nhân vật Kiên đi như đi vào chỗ không người, khi đụng trận với thám báo (lại thám báo): “Kiên chẳng buồn khom người xuống, thong thả đi tới, vẻ khinh miệt đầy uể oải.Tên địch hấp tấp bắn. Hắn cuống. Ðạn nổ đinh tai. Song cả ba chục viên đạn quạt căng rát kỳ thay không một viên gãi vào Kiên. Anh không bắn trả, chỉ còn cách con mồi vài bước nữa, vẫn không bắn. Tuồng như anh muốn ban cho tên địch cơ hội sống còn: kịp thay băng, nhắm kỹ mà bắn gục anh. Nhưng chính sự chán chường táo tợn của Kiên đã làm xiêu lạc hồn phách hắn. Run bần bật, hắn đánh rơi khẩu tiểu liên. – Ðồ cứt đái! Kiên chửi gằn và khinh bỉ siết cò. (NBCT, trang 31, 32).

Ðúng là nhà văn Bảo Ninh lại mâu thuẫn với chính anh. Trong phần trên, anh đã vẽ nên toán thám báo tung hoành trong mật khu, đằng đằng sát khí, sau khi bị bắt, vẫn lạnh lùng, thách thức, gan dạ, tàn bạo thì bây giờ anh lại cho những người lính thám báo kia quá tội nghiệp, thỏ đế, con gà nuốt dây thun. Anh dựng nhân vật rất hay nhưng quá giả tạo như kiểu cao bồi cải lương. Có tên lính nào ngu đần khi hắn vào thám báo. Có tên lính nào cách kẻ địch vài bước (nhắc lại: vài bước) quạt M16 mà sợ đến độ té đái trong quần. Và có tên lính nào vừa đi vừa đếm 30 viên đạn như Kiên. Thưa anh Bảo Ninh, hắn đã tha mạng Kiên đấy. Hắn đã tội nghiệp giùm cho một người tuổi trẻ miền Bắc đấy. Hắn đã tha như tôi và bè bạn tôi đã tha đồng đội các anh. Chúng tôi đã mời họ những điếu thuốc. Chúng tôi đã băng vết thương họ, kêu trực thăng mang họ về bệnh xá. Anh nhớ lại xem, những tù binh phe các anh, sau khi các anh vào, người nào người nấy mập và trắng, tiêu chuẩn đầu người bốn, năm đô la mỗi ngày, và luôn luôn được chiếu cố bởi hội Hồng Thập Tự Quốc tế…

Vâng, những người lính mà anh rẻ rúng khinh miệt ấy, trong ấy có tôi, họ không hèn đâu. Chính trong NBCT, anh cũng đã thú nhận, năm Mậu Thân, hàng ngũ của anh đã tơi tả, tả tơi, có đơn vị thiệt hại đến 70, 80 phần trăm. Mắt tôi thấy các anh chạy như một lũ chuột thoát thân, mà chẳng cần xin pháo dập theo, hay đuổi tiếp. Ngay cả những người nữ cảnh sát viên (lại phóng đại nữa, trời ạ. Ban Mê Thuột tôi đã từng ở mấy năm, đi tìm nát nước, nào thấy một người nữ cảnh sát viên nào đâu. Nhưng cũng xem là thật đi.) mà anh viết, họ là đàn bà phụ nữ, nhưng họ vẫn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Chiến đấu bằng súng lục (như anh kể trong truyện) trước quân đội chính quy của các anh. Ðàn bà yếu đuối mà còn dũng cảm như beo hùm, huống hồ là đám thám báo chúng tôi. Họ tha Kiên chết đấy. Và anh phải thay mặt Kiên để cảm ơn họ mới phải. Ðó là lý do tại sao nhà thơ Trần Khuất Nguyên trong Ly thân đã tìm đến người thương binh của hàng ngũ chúng tôi mà kết bạn trong những ngày đen tối nhất của đời ảnh, mà không tìm đến các anh.

Ðã hai mươi năm sau chiến tranh, những tên đồ tể buôn bán xương máu tuổi trẻ Việt Nam đã ló dạng trước ánh sáng của lịch sử. Dù kẻ bại dù kẻ thắng, chúng ta cũng vẫn là nạn nhân từ những mỹ từ, nhân danh, mà những chuyên viên xúi giờ đây đang uống sâm nhung để chờ ngày thoi thóp. Lẽ ra chúng ta không nên khơi dậy những thảm kịch của quá khứ, nhất là gây thêm cái khoảng cách giữa những người thuộc hai phe, dù Bắc, dù Nam.

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

Tuấn Khanh hát Tình Nhân Loại - Nghĩa Đồng Bào, nhạc Phạm Duy





Tuấn Khanh hát Lời Người Điên, nhạ Lê Hựu Hà





Rưng Rưng, nhạc sĩ Tuấn Khanh phổ thơ Từ Niệm





Album Bụi Đường Ca (10 bài) /Nhạc sĩTuấn Khanh





Nguyên Phong hát Chúng Đi Buôn, nhạc Phạm Văn Hưng



Du Ca Sài Gòn hát Trái Tim Tự Do, nhạc Phạm Văn Hưng





Du Ca Sài Gòn hát Việt Nam Này Sẽ Nhất Định Vẻ Vang, nhạc Nguyễn Đức Quang





Du Ca Saigon hát Tuổi Trẻ Chúng Tôi, nhạc Giang Châu





Nguyên Phong hát Chuyện Không Của Riêng Ai, nhạc sĩ Tuấn Khanh





Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

Trở Về Nghề Cũ - Tác giả Bác Sĩ Nguyễn Duy Cung

 

Sang Hoa Kỳ, bác sĩ ngoại quốc nào cũng phải đi học lại.  Nhưng vùng tôi ở lại là một vùng quê, xa thành thị, không có trung tâm huấn luyện thi ECFMG, FLEX.  Gần nhất có một nhóm đồng nghiệp ở tiểu bang Oklahoma tổ chức học chung với nhau, nhưng đường xá xa xôi, tôi lại chưa có phương tiện xe cộ để di chuyển.  Trong thời gian còn ở trên đảo tị nạn Bidong, GS Wareham thuộc trường Y Khoa Loma Linda có nhắn tôi khi nào sang Hoa Kỳ thì đến gặp ông ngay.  Tôi được hân hạnh quen biết GS Wareham từ khi tôi được Bộ Y Tế VN đề cử tôi đại diện Bộ làm việc chung với GS đang hướng dẫn phái đoàn Giải phẫu tim Hoa Kỳ tại Sài Gòn vào năm 1974 và năm 1975.  Ông cho tôi địa chỉ của trung tâm Loma Linda trên Riverside, nơi ông làm việc. 



Nhưng California lại còn xa hơn Oklahoma, phải đi bằng máy bay tốn kém để đến trạm đầu, Los Angeles..  Từ đó có thể đi thẳng đến Loma Linda nằm trên Riverside, hoặc đi xe về Orange County rồi lên Loma Linda.  Tôi cũng muốn đi, ngặt vì cơ quan thiện nguyện USCC chỉ giúp được có 250 dollars một tháng cho gia đình 9 người của tôi.  Gặp vấn đề tài chánh thật khó khăn, không có đủ phương tiện để di chuyển cả gia đình qua California cùng một lúc, cũng không thể bỏ gia đình để ra đi một mình, tôi không còn cách chọn lựa nào khác hơn là ở lại Van Buren, ôm cuốn sách Y khoa Merck Manual xuất bản lần thứ 13dày 2165 trang do hai em tôi mua cho tôi tại Little Rock để tự học lấy một mình.  Đời sống các em tôi cũng chật vật, phân nửa đã dời đi Bakersfield.

Một hôm có một người bạn thân – anh Hoàng văn Lộc – cùng đi chung tàu, sang trước, định cư tại Houston; anh có một xe van lớn, tự lái lên Van Buren giúp đưa cả gia đình tôi về thành phố Houston, một thành phố lớn nhất của tiểu bang Texas có diện tích 3 lần nước VN và cho chúng tôi ở trong một căn nhà rộng rãi, tiện nghi, anh đã mướn sẵn, nằm trên đường Victoria khu South Bell.  Như một chuyến xe đò lục tỉnh bên nhà chở đầy hành khách, xe Van của anh cũng phải tháo bớt băng sau mới có đủ chỗ chở người ngồi trên sàn xe.  Còn trên mui xe thì kềnh càng bàn ghế cũ, người lối xóm không dùng nữa, đem vất bỏ ngoài lề đường, chúng tôi lượm đem về.  Ở dưới Galveston, anh bác sĩ Nguyễn văn Tạ một bạn thân cùng lớp qua trước cũng cho tôi một cái bàn học nhỏ vừa vặn, tôi rất thích, làm bằng loại gỗ sồi rất nặng.

Về Houston, để giúp thêm vấn đề tài chánh cho gia đình, tôi đi làm công cho Utotem, một tiệm bán hàng tạp hóa, đồng thời bán xăng, mở cửa 24 trên 24 giờ, nằm sâu trong rừng, nguy hiểm, kém an ninh, thường hay bị cướp.  Trước quầy tiền lúc nào cũng có tấm bảng nhỏ đề: “Trong hộc tủ chỉ có 20 đồng thôi” viết bằng tiếng Anh.  Làm việc nhiều nhưng lương hàng tháng của tôi không được bao nhiêu, độ vài trăm Mỹ kim, vợ tôi phải quá giang xe một cô bạn quen để đi làm việc thêm trong tiệm bán thời trang hiệu Palais Royal ở địa hạt Pasadena; về nhà dạy thêm Dương cầm và làm hoa vải.  Buổi chiều nào, mượn được xe nhỏ, chúng tôi chạy rong trong rừng, nhìn những nhánh cây khô có hình dáng thon thả cắt về, kết thêm hoa đem bán trong nhà thương.

Dưới phố Houston có một trung tâm giáo dục tư tên Kaplan, chuyên dạy thi ECFMG và FLEX; trường nằm trên Freeway 55, xa nơi cư trú, phải lái xe trên xa lộ hơn một tiếng đồng hồ mới tới nơi.  Vấn đề di chuyển là hết sức quan trọng trên nước Mỹ vừa rộng vừa lớn.  Trong lúc vợ chồng tôi đang lục quảng cáo, tìm kiếm xe cũ rẻ tiền để mua, thì một anh bạn thân học lớp trên tôi, bác sĩ Chu Bá Bằng đến thăm.  Trước đây anh có làm Ngoại trú Giải phẫu tại bệnh viện Bình Dân.  Khi ra trường anh lên Cao nguyên làm Y sĩ trưởng Bệnh viện Dã chiến Kon Tum.  Sau đó đổi ra Đà Nẵng, anh thay thế tôi trong chức vụ Y sĩ trưởng khoa ngoại thuộc TYV Duy Tân.  Bác sĩ Chu Bá Bằng sang Mỹ trước tôi và đang hành nghề dưới phố Houston, anh khuyên tôi nên mua xe mới để dùng, thay vì dùng xe cũ, để tránh những trục trặc phiền toái như xe bị hư giữa đường, nhất là trên xa lộ dài, 5-6 lằn đường, tốc độ xe chạy rất nhanh 60-70 dặm một giờ rất nguy hiểm, và anh nhận ký tên chung trong giấy mua xe Oldsmobile mới đời 1980 cho tôi (đứng tên chung co-sign có nghĩa là nếu người mua xe không đủ khả năng để trả tiền trong tháng nào đó thì người đứng tên chung có bổn phận phải trả dùm). 

Chúng tôi cố gắng không để cho anh phải ở trong hoàn cảnh như vậy.  Anh BS Bằng quá tốt.  Nhờ có anh đứng tên chung mà tôi mua được chiếc xe mới để đi học.  Nơi đây tôi thành thật cám ơn anh đã giúp tôi trong bước đầu khó khăn, chật vật.  Có xe rồi nhưng chưa đi học được vì còn vấn đề học phí trong trường Kaplan quá cao 1,200 Mỹ kim cho một khóa.  Khi rời Van Buren em gái tôi có cho 400 đồng để làm lộ phí đi đường.  Có người khuyên tôi, thử trình bày hai tờ giấy của Tòa Đại sứ Mỹ và của Cao ủy tị nạn LHQ ở Kuala Lumpur chứng nhận thời gian tôi làm Trưởng trại tị nạn P.  Bidong.  Không ngờ trường thấy tôi có tích cực đóng góp vào những công tác xã hội trên đảo tỵ nạn, nên đồng ý chỉ nhận 400 đồng và cho tôi đến học.  Bước đầu tới Mỹ tuy còn khó khăn nhưng con đường đến trường lại có nhiều thuận lợi và may mắn khiến tôi như được tăng thêm sức mạnh và ý chí khi tiếp tục nghề nghiệp Y tế của mình. 

Cách tổ chức các lớp học của trường rất hay; trường có những cuốn băng nhựa trình bày rõ ràng tất cả những điểm chánh của các bài học, các câu hỏi khúc-mắc trong các kỳ thi và các câu trả lời rõ ràng rành mạch.  Có những câu hỏi thông thường tìm thấy câu trả lời trong sách giáo khoa, nhưng cũng có câu hỏi lắt léo khó trả lời, thí dụ một câu hỏi có nhiều câu trả lời gần giống nhau, mà nếu mình không học để biết cách trả lời cho đúng thì dù mình có ôm bao nhiêu sách giáo khoa to tướng như Harrison đi nữa để học thuộc lòng, thì cũng chưa chắc đã có thể trả lời một cách chính xác được. 

Khóa sinh tự học lấy tùy theo khả năng, Giáo sư nhiều kinh nghiệm là những cuốn băng nhựa quý giá! Tôi đến sớm mượn vài cuốn băng, xong kiếm chỗ yên tĩnh ngồi nghe nghiền ngẫm.  Tôi chăm chỉ học mỗi ngày, từ sáng trường vừa mở cửa cho đến tối mịt mới trở về.  Ngày nghỉ ở nhà tôi tự giam mình trong gian phòng nhỏ, khoá cửa, vứt chìa khóa ra sân, học cho đến khuya, đều đều 12 tiếng trong một ngày.  Trong thời gian ở Houston, tôi hân hạnh gặp lại Bác sĩ Vũ Ban, một đồng viện trước kia trong Quốc Hội Lập Hiến.  Anh đến Mỹ sớm, có cơ ngơi vững vàng. . anh mời tôi cộng tác trong vấn đề Giải phẫu thẩm mỹ.  Thật là điều may mắn bất ngờ cho tôi.  Giải phẫu thẩm mỹ là một chuyên môn mà tình cờ lúc còn học Giải phẫu lồng ngực bên Nhật, tôi được hân hạnh và may mắn gặp GS Uchida, một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ nổi tiếng của Nhật, cha truyền con nối, hành nghề giải phẫu thẩm mỹ trên 25 năm.  Giáo sư Uchida đã tận tâm truyền dạy cho tôi kỹ thuật sửa mắt một mí thành hai mí cho người Á Đông và kỹ thuật độn ngực bằng túi nylon có chứa chất dẻo.  Nhờ có việc làm thêm khá ổn định nên đời sống trong gia đình tôi trở nên dễ chịu hơn.

Anh bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ, bên California thỉnh thoảng lại bay sang Houston thăm hỏi anh em.  Anh đã hết lòng giúp đỡ và khuyến khích tôi học, vì có lúc tôi cảm thấy chán nản, khi nhìn chung quanh thấy việc gì cũng có tánh cách thương mại, ngay cả trong lãnh vực Y khoa.  Đến năm 1980, khi tôi sang Bakersfield, California, ở nhà em tôi để học thi, thì không may thình lình tôi bị đau ruột dư cấp tính.  May nhờ có những người bạn thân cùng làm việc chung trong sở như cựu Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang và cựu tướng Lê quang Lưỡng lo dùm phần hành của mình nên em rể tôi Phạm Minh Hoàng (em ruột của Bác sĩ Phạm Minh Ngọc ở San Diego) lấy phép nghỉ hai ngày để chở tôi vượt đèo vượt núi, về Orange County, nhờ Bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ giới thiệu tôi vô nhà thương UCI để mổ khẩn cấp.  Đây là lần đầu tiên tôi được hưởng Medical.  Ông bác sĩ thường trú ngoại khoa khám bệnh cho tôi ở phòng cấp cứu, trong hồ sơ bệnh lý, có ghi “bệnh nhân đã tự chẩn đoán lấy bệnh viêm ruột dư cấp tính của mình, khi cơn đau bắt đầu nổi lên ở dưới chấn thủy”.

Trong thời gian tôi nằm nhà thương, GS Warehnam trên trường Đại học Loma Linda có đến thăm và dặn khi nào tôi ra nhà thương thì đến ngay Loma Linda gặp ông.  Tôi nhớ lời ông nhưng thay vì đi ngay khi xuất viện, tôi đợi đến lúc thi FLEX xong rồi mới lên Riverside, thì GS Wareham đã đi qua Trung Đông giúp cho một trung tâm Giải phẫu lồng ngực thuộc Vương quốc Saudi Arabia.  Có lẽ ông đã có thu xếp trước khi đi nên căn dặn người kế vị là GS Jacobson thay thế ông làm trưởng bộ môn Giải phẫu lồng ngực đã đưa tôi qua gặp GS Bruce Branson, Chủ nhiệm khoa Giải phẫu của Trường Đại học Loma Linda.  Trong thời gian này, thư viện của khu Ngoại khoa có một bác sĩ trẻ người Mỹ, cũng đang chờ đợi để được phỏng vấn.  Khoa Ngoại của nhà thương chỉ lấy có một thí sinh.  Điều làm cho tôi ngạc nhiên là trong suốt thời gian hơn một tiếng đồng hồ ngồi đối diện trước bàn làm việc, trong văn phòng của GS Branson, ông không hỏi tôi một câu nào về kiến thức Y khoa Giải phẫu.  Ông chỉ tâm tình cho biết ông có chứng kiến thời gian miền Nam sụp đổ, vì ông có mặt trong bệnh viện Cơ đốc Phục lâm tọa lạc gần phi trường Tân Sơn Nhứt, ngang Bộ Tổng Tham Mưu:

“Thay vì rời bỏ đất nước trong lúc nguy ngập để ra đi, anh đã tình nguyện ở lại nhà thương để mổ và chăm sóc cho trên năm trăm thường dân bị pháo kích, anh bị bắt trong khi đang làm việc trong phòng mổ, bị đưa đi học tập cải tạo cho đến chân anh bị suy yếu vì thiếu dinh dưỡng.  Anh đã hy sinh nhiều cho xứ sở của anh, bây giờ trường Loma Linda có bổn phận giúp đỡ lại anh.  Chừng nào anh muốn vô chương trình Giải phẫu của Trung tâm Y khoa Loma Linda?”

Câu hỏi của GS Branson làm tôi vô cùng bàng hoàng, vì trước khi lên Loma Linda, tôi có gặp Bác sĩ Cao Xuân An, một người bạn thân nguyên Đổng lý văn phòng Bộ Xã Hội VNCH.  Anh sang Mỹ trước tôi.  Khi đi tù CS về chung, tôi có mổ cho con anh.  Anh biết tôi thích và có khả năng về Giải phẫu nhưng anh cũng thành thật cho tôi biết tình trạng Y tế trên nước Mỹ lúc bấy giờ.  Đồng nghiệp Việt Nam có ECFMG và FLEX còn đông và đang chờ đợi để được nhận vô thực tập trong một nhà thương được chính phủ công nhận, nhưng vấn đề xin vô đây rất khó khăn, nhất là khoa Giải phẫu.  “Tôi biết anh thích về giải phẫu nhưng tôi cũng thành thật khuyên anh hãy quên đi”. Có vài bạn đồng nghiệp, vì hoàn cảnh sinh sống khó khăn, không thể chờ đợi để được nhận vô nhà thương, nên đã tìm cách đổi nghề, chuyển sang học Chiropractor, Châm cứu, OD, v. v…

Tôi không ngờ lại được trường Loma Linda gọi phỏng vấn và chấp nhận cho tôi làm Bác sĩ thường trú Ngoại khoa một cách dễ dàng mà không hỏi qua về khả năng chuyên môn.  Trường cũng miễn cho tôi bằng ECFMG dành cho tất cả bác sĩ ngoại quốc muốn học trở lại ngành Y Khoa tại Hoa Kỳ, miễn năm Intership… Chương trình Giải phẫu của Trung tâm Loma Linda là năm năm, năm cuối cùng có phần giải phẫu trẻ em và giải phẫu lồng ngực.  Sau đó, GS Branson giới thiệu cho tôi qua nhà thờ Cơ đốc nằm trong bệnh viện, để nơi đây cho tôi mượn 2,000 đồng thuê chỗ ở trong một cư xá lưu động gần trung tâm cho tiện việc học hành.  Thông thường muốn xin thực tập trong một nhà thương trên toàn nước Mỹ thì việc đầu tiên là phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ để gởi đến các trường Y Khoa mà mình lựa chọn, xong ngồi nhà chờ đợi. 

Có nơi nào gọi là phải tức tốc đi máy bay tới nơi, mướn khách sạn ở gần nhà thương, chờ đợi phỏng vấn, chẳng khác nào sĩ tử ngày xưa lều chõng ra kinh thi hội.  Ngày xưa đi bộ, băng rừng, trèo non, lội suối, phải mất một thời gian dài đôi ba tháng, hay lâu hơn, ngày nay đi máy bay, nằm ngủ một giấc là đến nơi.  Tuy nhiên việc chuẩn bị đi đến một nơi xa để được phỏng vấn thật là tốn kém.  Tôi rất lo ngại vì biết mình còn trong tình trạng quá yếu về tài chánh.  Tôi chưa dám gởi một hồ sơ đến bất cứ một nhà thương nào, ngay cả nhà thương Loma Linda.  Sau khi được GS Branson phỏng vấn, tôi chưa nhận được thư phúc đáp kết quả của trường, thì tên tôi đã được ghi trên danh sách trực gác của khoa Ngoại nhà thương Loma Linda đúng vào ngày lễ Giáng sinh năm 1984 và đồng thời tôi được lãnh tiền lương Bác sĩ thường trú ngoại khoa. 

Được làm việc trở lại trong phòng mổ của nhà thương Loma Linda, tôi rất mừng vì vừa phù hợp với khả năng của mình, mà lại vừa ít tốn kém, tuy nhiên tôi vẫn chưa tin đó là sự thật, vì qua đây trễ tràng, tôi không bao giờ dám mơ tưởng tới việc sẽ được học trở lại ngành giải phẫu trên đất Hoa Kỳ.  Lúc đầu tôi cũng còn thấy bỡ ngỡ, không phải vì vấn đề thuần túy ngôn ngữ.  Đọc sách Y khoa tiếng Pháp hay tiếng Anh đối với tôi không có vấn đề, tôi hiểu dễ dàng, vì bên nhà từ nhỏ cho tới lớn, tôi theo học chương trình Pháp; lên Sài Gòn tôi tiếp tục được học hết chương trình Y khoa Pháp.  Biết tiếng Pháp rồi chuyển sang học tiếng Anh tương đối không khó, vì cả hai đều có nguồn gốc chung là tiếng Latin.  Tôi cũng có theo lớp Anh văn trong trường Lê Văn Hai, xong cuốn L’Anglais sans peine (English without toil) và học sách dịch Chinh phụ ngâm của Đặng trần Côn bằng Anh văn dưới sự hướng dẫn của dịch giả Giáo sư Phạm Xuân Thái và nhờ bắt chước một người bạn, mỗi ngày học vài ba chữ trong từ điển Anh-Việt, nghe đài phát thanh ngoại quốc, đọc thêm sách báo tiếng Anh mà tôi có được một số vốn tiếng Anh cũng kha khá

Thời gian đi du học tại Mỹ năm 1962 trong Tổng Y viện Letterman, nhờ có dịp tiếp xúc hàng ngày với chuyên viên Y tá Mỹ khắp nơi về đây tập sự, có một cô Y tá Hoa Kỳ cấp bậc Đại úy, chuyên môn về Gây mê tặng tôi một quyển sách giáo khoa về Gây mê Hồi sức và giúp tôi trau dồi thêm Anh ngữ; mỗi ngày tôi lại có một bà giáo chuyên dạy về tiếng Mỹ cho tôi … Tại Nhật Bản năm 1969-70, tại Úc Đại Lợi và Phi Châu năm 1974 và thời gian trên đảo tỵ nạn P. Bidong năm 1979-80, làm việc gặp gỡ nhiều phái đoàn ngoại quốc nói tiếng Anh mà tôi có nhiều tiến bộ trên địa hạt Anh ngữ.  Tuy nhiên chỉ nghe giọng nói và cách phát âm của giáo sư đang giảng dạy thôi chứ chưa bao giờ có cơ hội thực hành với người ngoại quốc nói tiếng Anh.

Khi vào nhà thương Loma Linda, tiếng Anh của tôi trở nên khá hơn nhờ tiếp xúc mỗi ngày với những đồng nghiệp Điều dưỡng Mỹ, chung quanh tôi phần lớn là những người dân Hoa Kỳ thuộc Cơ Đốc giáo … Có một bác sĩ thường trú ngoại khoa gốc Hoa Kỳ, trong một buổi trực gác chung với tôi đã hỏi tôi vô đạo Cơ Đốc bao lâu rồi và đã ngạc nhiên khi biết tôi không phải là người thuộc đạo Cơ đốc mà lại được tuyển chọn vô làm Bác sĩ thường trú ngoại khoa của trường Đại học Loma Linda.  Trong nhà thương suốt ngày chỉ có cơm chay.  Muốn ăn mặn phải ra ngoài phố hoặc về dưới Santa Ana.
Tôi thầm nghĩ, đây là một phép mầu nhiệm mà Ơn trên đã ban cho tôi, khiến GS Wareham, GS Branson, GS Jacobson đã giúp cho tôi vô học lại về giải phẫu trong nhà thương Loma Linda để trở về nghề cũ {sớm hơn và tương đối dễ dàng hơn, bù đắp lại thời gian bốn năm dài tôi đã mất trong các trại tù lao động tập trung và dưới sự quản chế của công an cộng sản địa phương. 

Thêm vào đó có thời gian hơn hai năm trời sống lênh đênh trên biển cả, vượt biển tìm Tự Do và ở trên hoang đảo tỵ nạn P. Bidong. } Các Giáo sư của trường Đại học Loma Linda chỉ dựa vào kinh nghiệm chuyên môn Giải phẫu của tôi, dựa vào quá trình làm việc về giải phẫu của tôi tại quê nhà, về giấy chứng nhận của Giáo sư Norman Hoover, nguyên Đại diện Hiệp hội các bác sĩ Hoa Kỳ tại trường Đại học Y khoa Sài Gòn từ năm 1967 đến năm 1974 về thơ giới thiệu của hai vị GS cựu Khoa trưởng trường Đại học Y khoa Sài Gòn là GS Đặng Văn Chiếu và GS Đào Hữu Anh.

Lãnh lương bác sĩ thường trú ngoại khoa tháng đầu tiên được 1,600 Mỹ kim.  Để tỏ lòng biết ơn trường Loma Linda tôi có nhã ý gởi hết số tiền đóng góp cho khu Ngoại khoa, nhưng GS Branson đã từ chối.

Tôi tập trung tất cả ngày giờ vào sự học.  sáng sớm, mới 4 giờ rưỡi, tôi đã lái xe Oldsmobile từ Orange County lên nhà thương, vô phòng dành riêng cho bác sĩ, thay quần áo nhà thương, chờ đợi theo anh bác sĩ trưởng thường trú đi thăm bệnh đã mổ hay chuẩn bị mổ, hoặc xuống khu Giải phẫu phụ Giáo sư giải phẫu hoặc sang nhà thương có liên hệ với Loma Linda như nhà thương cựu chiến binh dự thính những buổi nói chuyện về Ngoại khoa.  Khi trở về nhà thương Loma Linda, trước tiên tôi đến thăm “thư viện riêng của tôi” là cái thùng sau của chiếc xe Oldsmobile chứa đầy sách Y khoa để tham khảo thêm.  Ăn cơm trưa xong, ngày nào không có giải phẫu, tôi lên ngồi trong thư viện yên tĩnh của khu Ngoại trên tầng lầu 2 đọc sách, bên ngoài trời tối lúc nào không hay; đến chiều hết giờ làm việc, khu Giải phẫu đóng cửa, tôi lái xe trở về nhà ở Santa Ana. 

Có khi mệt mỏi, tôi tấp sát xe vô lề đường, hoặc xuống đường bên trong tìm chỗ an toàn đậu xe, ngồi sau tay lái, ngủ một giấc cho thật tỉnh rồi mới tiếp tục trở ra lại trên xa lộ.  Tôi học chăm chỉ.  GS Branson có lòng tốt muốn đào tạo tôi thành một nhân viên Giảng huấn ngoại khoa cho trung tâm.  Nhưng vì hoàn cảnh, tôi còn lo nghĩ đến gia đình ở bên này và những người thân còn ở lại bên nhà cũng như những nhân viên đã từng giúp đỡ tôi, khi tôi đi tù cải tạo về, nên tôi chỉ xin học một năm cho đúng theo điều lệ quy định, để sau đó vào ngày 6-03-85, cùng đi với Bác sĩ Vũ Quí Đài, nguyên khoa trưởng trường Đại học Y khoa Sài Gòn, lên San Francisco thi bằng hành nghề của tiểu bang California.

Trong ban giám khảo, vị Giáo sư chuyên về ngoại khoa đã hỏi tôi nhiều câu liên quan đến vấn đề đau bụng cấp tính thường xảy ra và cách điều trị.  Tôi đã trả lời đúng từng phần một từ bệnh đau ruột dư cấp tính, đến bệnh viêm túi mật, với chẩn đoán sai biệt bệnh viêm sạn đường tiểu và bệnh viêm buồng trứng.  Viêm ruột dư cấp tính phải mổ liền, còn viêm túi mật phải chuẩn bị cẩn thận bằng trụ sinh rồi mới nên mổ.  Thấy tôi trả lời được, ông hỏi lần lên bộ phận lồng ngực, về chấn thương của động mạch chủ.  Tổn thương động mạch chủ do chấn thương là một trường hợp cần phải can thiệp khẩn cấp, chẩn đoán được tổn thương bằng cách chụp hình lồng ngực để thấy trung thất bị rộng ra và dùng thuốc cản quang để chụp thấy nơi động mạch bị rách để can thiệp.  Tôi trả lời thông suốt các câu hỏi.  Thường thường sau khi hỏi xong thí sinh ra bên ngoài ngồi, chờ đợi kết quả.  Trường hợp tôi, sau khi đúc kết cuộc phỏng vấn, ông Giáo sư lại hỏi tôi thêm một câu: “Chừng nào anh định mở phòng mạch?”. Nghe câu hỏi trong lòng tôi mừng thầm vì đoán được kết quả của cuộc thi.

Bận trở về chỉ có một mình, tôi ghé thăm anh Nguyễn văn Ánh, một người bạn thân, cựu Đại tá Hải quân, xong theo đường chỉ dẫn tôi lên thăm thung lũng Yosemite nằm giữa tiểu bang California, có chiều dài 10 cây số, chiều cao 1 cây số 300 thước, với nhiều khe sâu và nhiều ngọn núi cao oai nghiêm, hùng vĩ.  Đứng dưới chân núi mát lạnh, nhìn thác nước trên cao triền miên đổ xuống qua nhiều thế kỷ, tôi cảm thấy đời tôi bắt đầu một giai đoạn mới, nhẹ nhàng, dễ thở.

Sau khi tốt nghiệp bằng hành nghề của tiểu bang California và bằng giải phẫu của trường Loma Linda, trước khi rời nhà thương Loma Linda, GS Bruce Branson chủ nhiệm khoa Giải phẫu của Trung tâm Loma Linda, yêu cầu tôi trình bày tại Hội trường lớn của Trung tâm đề tài: “Cuộc vượt thoát bằng đường biển của một bác sĩ Giải phẫu Việt Nam, nguyên Tổng Quản Đốc Trung tâm Thực tập Y khoa Gia Định-Bệnh viện Nguyễn Văn Học, kiêm chủ nhiệm khoa Giải phẫu”..

Một đề tài không liên quan gì tới ngành chuyên môn, nhưng tôi biết được chủ ý của giáo sư là muốn cho tôi có cơ hội để nói lên ý chí của mình, bởi vì có ý chí thì mới có thành quả được, tôi cố gắng sắp xếp lại câu chuyện cho mạch lạc và trình bày bằng tất cả sự thật trong trái tim mình. . Sau buổi nói chuyện, cử tọa đứng dậy vỗ tay tán thưởng, và tự động xếp một hàng dài lên bắt tay, an ủi và tỏ lòng mến trọng tôi.  Tôi được Giáo sư Branson trao cho một ngân phiếu 200 đồng tượng trưng tiền thù lao của Thuyết trình viên.

Rời trường Loma Linda tháng 9 năm 1985, qua năm sau 1986, tôi gia nhập Hội Giải phẫu Thẩm mỹ Hoa Kỳ và sáu năm sau vào năm 1992, đậu bằng Giải phẫu Thẩm mỹ Quốc tế, tôi được GS Bolivar Escobido, Chủ tịch Hội Giải phẫu Thẩm mỹ Quốc tế mời tham gia đi nói chuyện về Giải phẫu Thẩm mỹ tại Âu Châu và Nam Mỹ.  Trong đoàn còn có BS Frank Alvarez, một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ nhiều kinh nghiệm gốc Cuba.  Tôi phụ trách phần nói chuyện về Giải phẫu thẩm mỹ sửa mắt một mí thành 2 mí cho người Á Đông tại thủ đô Rome (Ý Đại Lợi), Barcelona (Tây Ban Nha), nơi đây tôi được tước vị Giáo sư danh dự của Hội Giải phẫu Thẩm mỹ tây Ban Nha cùng một lúc với GS Pitanguy I, chuyên gia nổi tiếng Thế giới về Giải phẫu Thẩm mỹ ngực, người gốc Brazil.  Tại thủ đô Lima Peru (nam Mỹ) bác sĩ Frank và tôi được mời giải phẫu căng da mặt cho một người trong thân tộc của GS Escobido.  Kết quả cuộc giải phẫu rất tốt.

Trở về Orange County, tôi mở phòng khám bệnh tư, hành nghề tại số 14441#2 đường Brookhurst, Garden Grove, tiểu bang California được 10 năm.  Sau đó dời về đại lộ Beach Blvd số 17672, làm việc thêm được 4 năm.  Cuối cùng trở về 13071 đường Brookhurst # 170 Garden Grove làm việc cho đến năm 2004.  Suốt thời gian hơn 15 năm hành nghề, tôi đã dùng phòng khám bệnh một phần để giúp đỡ miễn phí cho những người trước đây ở chung trong các trại tù Cộng Sản VN với tôi, những người bên đảo tị nạn Bidong mới sang, những người sống trong tiểu bang California chưa được trợ cấp Medical.

Một biến cố xảy ra trong thương trường với nhiều gian dối, bị kích xúc mạnh tôi thình lình lên cơn đau tim được Bác sĩ Loan Thị Hồ Ngô chuyên khoa nội thương tim mạch giới thiệu lên nhà thương Good Samaritan trên Los Angeles.  Nơi đây BS Gregory Louis Kay chuyên về Giải phẫu tim đã lấy tĩnh mạch ở chân trái của tôi lên làm nhịp cầu nối động mạch chủ vô tim (bypass surgery) cho tôi.  Qua năm sau tôi lại bị suy thận, một tuần ba lần đi lọc máu (Hemodialysis).  Tôi phải ngưng làm việc.  Phòng mạch tôi phải nhờ vợ và con gái tôi tốt nghiệp chuyên khoa phòng mổ tiếp tục trông nom với sự cộng tác chuyên môn của những người bạn, những bác sĩ Giải phẫu thẩm mỹ hành nghề trên Beverly Hill và ở Newport Beach.

Ngồi ôn lại suốt cuộc đời Y sĩ từ ngày mới ra trường cho đến nay, trải qua những vinh quang và tủi nhục, tôi cảm thấy lòng mình yên ổn.  Tôi đã làm tròn chức năng của một người thầy thuốc, hết lòng lo nghĩ và chăm sóc tận tình cho quân nhân ngoài tiền tuyến, cũng như tận tụy với bệnh nhân nơi hậu cứ, trong các nhà thương.  Tôi đã không quản ngại nguy hiểm ở lại sau cùng trên mặt trận Dakrotah ngoài biên thùy Tân Cảnh Kon Tum để chờ đợi thương binh còn mắc kẹt trong rừng sâu sau cuộc chiến.  Tôi đã hiến máu loại O của tôi ngoài TYV Duy Tân-Đà Nẵng để kịp thời mổ và cứu sống một thương binh bị thương nặng do một viên đạn trung liên trúng ngực, viên đạn xuyên từ đỉnh ngực bên phải qua cơ hoành, xuống bụng, làm lủng phổi, bể gan, lủng ruột.  Bệnh nhân đã có giấy khai tử của đơn vị. 

Tôi đã nhảy xuống sông Đà chảy xiết ban đêm để cứu một quân nhân Hoa Kỳ sắp chết chìm… Tôi đã lội qua sông Cà ty Phan Thiết, một vùng xôi đậu thuộc chiến khu tam giác sắt VC để chữa cho một em bé đau nặng.  Tôi đã ra ngoài hải đảo Phú Quý xa xôi cách đất liền Phan Thiết 100 cây số để chăm sóc cho ngư dân nghèo trên biển cả.  Tôi đã hai lần tình nguyện lên tận vùng rừng thiêng nước độc Phước Long-Bà rá, nguy hiểm mà từ trước đến bây giờ, chưa có một bác sĩ nào đến làm việc.  Tôi đã tình nguyện hy sinh ở lại nhà thương Nguyễn Văn Học vào giờ phút chót để mổ cho hàng trăm thường dân bị trúng đạn pháo kích của CS, để rồi bị CS bắt ngay trong phòng mổ và bị đưa đi các trại tù cho đến chân tôi bị suy yếu vì thiếu dinh dưỡng. 

Được tạm tha trở về nhà thương làm việc vì nhu cầu chuyên môn giải phẫu lồng ngực.  Tôi vẫn một lòng tận tụy cho bệnh nhân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, mặc dù tôi phải làm việc trong phòng mổ một thời gian dài không lương với những tủi nhục chua xót của kẻ chiến bại bị phân biệt đối xử trong chế độ CS.  Thỉnh thoảng tôi còn phải đến những nơi thật là hắc ám để trình diện, ban đêm tôi phải xách tầm vông và dây luộc ra ngồi dưới cột đèn đường Duy Tân, canh gác khu phố dưới sự giám sát của Công an.  Nhà tôi ở cũng không yên ổn, cơ quan an ninh của phường tự tiện vô lục soát bất cứ lúc nào. 
“Không có gì quý hơn độc lập- tự do”.  Mỉa mai thay câu nói này lại đặt trong chánh sách đàn áp độc tài của Cộng Sản. . Người dân không còn sự lựa chọn nào khác hơn là ra đi để thoát khỏi gông cùm đó.  Chúng tôi trân mình chịu đựng cho đến ngày vợ tôi tổ chức cho cả gia đình an toàn trốn được xuống Rạch Giá tìm đường vượt biển …Trải qua những gian nan thập tử nhất sanh trên biển cả bao la để được tới đảo và cuối cùng tới được bến bờ tự do trên đất Mỹ.  Rồi tôi cố gắng học hành để được đặc biệt thâu nhận vô trường Đại học Loma Linda, trở lại nghề nghiệp cũ làm Bác sĩ Giải phẫu Y khoa.

Cho đến ngày hôm nay, tuổi đã về chiều còn vướng phải hai chứng bệnh ngặt nghèo cùng một lúc, vừa phải mổ nối động mạch tim bị nghẽn vừa bị suy thận phải lọc máu một tuần ba lần.  Tôi không biết có phải là Ơn Trên báo động sẽ chấm dứt sứ mạng cứu người của tôi, hay đây cũng lại là một thử thách khó khăn để rồi sau khi may mắn được lành bệnh sẽ giao phó cho tôi một nhiệm vụ cứu nhân nào khác nữa?
Trước khi chấm dứt thiên Hồi ký này tôi muốn có một đôi lời tri ân:

Lúc còn nhỏ, tôi ham chơi hơn ham học, suốt ngày chạy rong trên những cánh đồng ruộng lúa mênh mông, theo những đứa trẻ chăn trâu, mồi chim, bắt cá lia thia, đá gà, bắt dế, giăng câu, v. v… Lớn lên tôi chỉ có một mớ kiến thức khiêm nhường về đồng áng, nhưng may mắn thay, được mẹ và người chị lớn thứ ba hết lòng giúp đỡ dìu dắt cho tôi tiếp tục học hành; tôi thi đậu vô trường trung học Pétrus Ký, học xong ban tú tài Pháp phần I tại trường tư thục Lê văn Hai – Huỳnh thị Ngà, ban tú tài Pháp phần II tại trường trung học Chasseloup Laubat, tốt nghiệp trường Hàng hải Việt Nam với hai bằng Sĩ quan Viễn Dương và Cận Dương thuyền trưởng, tốt nghiệp trường Y Khoa Đại học Sài Gòn với bằng Bác sĩ Y Khoa.  Luận án Tiến sĩ được Hội đồng Giám khảo Y Khoa chấm tối ưu hạng và được đề nghị một Giải thưởng luận án.

Cuộc đời của tôi đã đi qua những đoạn đường chông gai thời chinh chiến tàn khốc, đôi khi quá kinh hoàng trong bom rơi đạn nổ mịt mù, hay những lúc khiếp sợ hãi hùng trên biển cả cuồng phong bão tố, nhiều lúc tưởng chừng như không thể nào thoát được lưới tử thần, nếu không có bàn tay mầu nhiệm của Thượng Đế đã cứu vớt tôi.  Tôi có người Mẹ thân yêu đã mất cách đây trên 50 năm, lúc tôi còn trẻ.  Tuy nhiên tôi có linh cảm như mẹ tôi lúc nào cũng ở bên cạnh để che chở bảo vệ tôi và giúp cho tôi tránh khỏi những tình huống vô cùng khó khăn đen tối.

Quyển Hồi ký này tôi viết và để lại cho gia đình bé nhỏ của tôi, cho người vợ hiền tuy nhỏ tuổi hơn tôi nhiều nhưng thật đảm đang, gan dạ, một lòng chung thủy đã không bỏ tôi trong cơn hoạn nạn, thời buổi khó khăn khi tôi còn trong các trại tù tập trung Cộng Sản.  Ở nhà, vợ tôi đã thay thế tôi chăm sóc chu đáo cho cha tôi trong cơn đau tim trầm trọng, biết thu xếp việc gia đình vất vả trăm chiều, tìm kiếm tổ chức vượt biển và lo cho tôi sớm rời khỏi chốn lao tù, đưa cả gia đình xuống miền Tây Rạch Giá để dùng tàu rời khỏi VN.  Sang Hoa Kỳ, vợ tôi biết an phận chấp nhận những thiếu thốn về vật chất riêng tư cho mình, đi làm lụng cực nhọc để lo cho tôi có đầy đủ phương tiện trong việc học hành trở lại và chăm sóc chu đáo các con, các cháu.  Tôi tự thấy mình may mắn khi có một gia đình êm ấm, là điểm tựa vững vàng đã giúp tôi không gục ngã mỗi khi đau buồn thất vọng…


Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2025

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

Andy Williams hát The Shadow Of Your Smile





Air Supply - I'm All Out Of Love





The Platters - The Great Pretender





Bob Dylan Blowing hát In The Wind





Thái Thanh hát Tìm Nhau, nhạc Phạm Duy





Julie Quang hát Thương Nhau Ngày Mưa, nhạc Nguyễn Trung Cang





Scott Bessent on global responses to AI’s political and financial potential

 

https://youtube.com/shorts/_XeYEIldi3o?si=nn0Yx14SOx3aU2kF


Dạ Hương hát Mùa Xuân Đầu Tiên, nhạc Tuấn Khanh





Nét thanh lịch kinh điển của hiệu thời trang Lanvin





TT Trump, hòa bình từ hố bom B2, tác giả Vĩnh Tường





Nguyên Khang hát Giờ Đây Đã Lỡ Xa Nhau, nhạc Trúc Hồ





Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Câu trã lời của bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ làm knocked out dân biểu liên bang gốc Việt: "Tôi không làm việc cho cảnh sát trưởng tại Los Angeles"





Rò rỉ điện đàm Hun Sen: Chính phủ Thái Lan bên bờ sụp đổ





"Thay đổi chế độ": Cuộc cược mạo hiểm của thủ tướng Israel?





Thủ tướng Thái Lan đối mặt với khủng hoảng do căng thẳng biên giới và “ông chú” Hun Sen





Tham vọng hạt nhân: Iran tự đẩy mình vào đường cùng





Lionel Richie hát Hello





Màu tím hoa sim





Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

Lính Mỹ Nhảy Dù Gốc Việt





Màn biểu diễn của lính nhảy dù Mỹ: Bay lượn trên không trung như "batman"





Lời sám hối của cha





Nhạc ngoại lời Việt: "Yêu đến muôn đời", bản gốc là của ai?





The Beach Boys: Hết rồi những "rung cảm tuyệt vời"





Tính sai nước cờ, Iran khốn đốn trước Israel táo bạo





Mỹ mang nợ gần 37.000 tỷ: Đô la vẫn là một phương tiện dự trữ an toàn?





Đóng eo biển Ormuz: Một thứ vũ khí "nguyên tử" nhưng cũng là con dao hai lưỡi đối với Iran





Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

Liên Đoàn Biệt Cách Dù 81





Vuốt Mặt, nhạc Anh Việt Thu





Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa





Trường Ca Con Đường Cái Quan, tác giả Phạm Duy





Tôi đã giữ lời hứa với các bạn tù cải tạo, cựu binh VNCH như thế nào?









Khát vọng hòa giải của người từng phục vụ hai chế độ





Toàn cảnh vụ nổ súng ở Vĩnh Long





Nhạc ngoại lời Việt : « Yêu đến muôn đời », bản gốc là của ai ?





Bà quả phụ trung tướng Ngô Quang Trưởng kể về phu quân





Writer Thach Lam's daughter, writer Nguyen Tuong Nhung, talks about her father.





Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2025

Paul Simon & Friends: The Library Of Congress Gershwin Prize For Popular Song





Peter, Paul And Mary: At Newport 1963-65





Nhìn lại 50 năm lịch sử thuyền nhân Việt Nam





Ông Nguyễn Gia Kiểng và khát vọng hòa giải của người từng phục vụ hai chế độ





Liệu nhân dân tệ có thể soán ngôi đô la?





Sáng tác của Bee Gees : Những phiên bản hoà âm mới





Phút Mặc Niệm sau khi chào cờ ngày 30 tháng 4, 2025 tại trại Tị Nạn Pulau Bidong, Malaysia





Tỷ lệ thi đậu vào Đệ thất niên khóa 1966-1967 ở các trường công lập Sài Gòn.

 



Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

Việt Nam 50 Năm Nhìn Lại: Phần 1 - Di Sản Việt Nam Cộng Hòa: Chính Trị & Kinh Tế





Cái chết của giáo sư Nghiêm Thẩm - Tác giả Vũ Đình Trác

 

𝐂𝐡𝐢𝐞̂́𝐜 𝐛𝐮́𝐚 𝐤𝐡𝐚̉𝐨 𝐜𝐨̂̉ 𝐯𝐚̀ 𝐜𝐚́𝐢 𝐜𝐡𝐞̂́𝐭 𝐛𝐢 𝐭𝐡𝐚̉𝐦
𝐜𝐮̉𝐚 𝐊𝐡𝐚̉𝐨 𝐂𝐨̂̉ 𝐆𝐢𝐚 𝐍𝐠𝐡𝐢𝐞̂𝐦 𝐓𝐡𝐚̂̉𝐦
Giáo sư Nghiêm Thẩm.

Bài dưới đây là một chương (từ trang 251 đến trang 259) trong cuốn “Rồng Xanh Ngục Đỏ” của Linh Mục Vũ Đình Trác do Hội Hữu xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1986.
Đây là một cuốn hồi ký kể lại quãng đời của tác giả từ sau ngày 30 tháng 4, 1975 cho đến lúc vượt biên thành công vào tháng Năm, 1980.
Chương nói về cái chết của Giáo Sư Nghiêm Thẩm mà chúng tôi xin phép đăng lại hôm nay là một tài liệu quan trọng, khẳng định bọn phỉ quyền cộng sản VN đã thủ tiêu Giáo Sư với chính “chiếc búa khảo cổ” của ông, để trừng trị ông đã không chịu cộng tác với bọn chúng rêu rao một cách phản khoa học và lố bịch rằng Việt Nam là thủy tổ của các dân tộc Đông Nam Á Châu.
*
Nghiêm-Thẩm được bọn phỉ quyền Hà Nội cho là nhà khảo-cổ và nhân-chủng học xuất-sắc. Chính sự xuất sắc lỗi lạc đã đưa ông đến cái chết bi thảm vô cùng.
Tôi quen GS Nghiêm-Thẩm từ 1978, khi tôi được mời vào làm việc trong nhóm Ngữ Học của Thanh-Lãng nhân một hôm có cuộc hội-thảo về tài-liệu cổ. Khi tôi trình-bày một tài-liệu cổ văn-học Việt qua cuốn Bách Việt Tiên-Hiền chí rút trong Đại Bộ Dã-sử Trung Hoa Lĩnh-Nam di thư. Như thoáng ngửi thấy mùi cổ kính quen thuộc, Nghiêm-Thẩm ngậm dọc tẩu đúng điệu “đế-quốc” đến bên cạnh tôi. Ông chỉ hỏi tôi một câu:
Linh-mục được biết tới tài-liệu đó hay hiện đã nằm trong tay?
Tôi nói với ông:
- Hiện tài-liệu đó đang nằm trong tủ sách của tôi.
Ông nhắp nhắp dọc tẩu hai ba cái, quay về chỗ cũ, cóvẻ đắc ý.
Ngay sau khi tan hội, ông tới phòng tôi để nhìn tận mắt tập tài-liệu cổ đó.
Ông nói với tôi:
- Tài-liệu này rất quý, tụi Pháp mà vớ được tài-liệu này, nó có thể làm truyện lớn. Tụi cộng-sản Bắc-Việt cũng chưa có. Linh-mục đừng để tụi nó đánh hơi thấy mà rầy-rà đấy. Riêng tôi có một tượng đồng đen nhỏ, một cái búa khảo cổ rất quý và một ít sách hiện nay không tìm đâu ra, mà tụi nó săn như săn vàng ấy.
Chúng tôi uống với nhau vài ly rượu thuốc, rồi ông ra về.
Mối duyên khảo cổ
Sau buổi sơ-giao ấy, Nghiêm-Thẩm luôn luôn có dịp gặp tôi, lúc thì ở phòng họp, khi thì ở nhà riêng. Tôi cho ông xem những tài-liệu cổ về văn-học Bách-Việt và những tài-liệu liên-quan đến văn học cổ Việt-Nam, hiện nay được tàng-trữ tại thư-viện Quốc-hội Nhật-Bản.
Có lần ông bảo tôi:
Tôi say mê mấy cái đồ cổ này còn hơn mê gái nữa, linh-mục ạ.
Ông cũng mời tôi đến nhà riêng tại vùng Trương-minh-Giảng, để nhìn chiếc búa khảo cổ và những sách quý của ông.
Ông nói:
Chiếc búa khảo cổ này, bao nhiêu người đòi mua, nhất là người ngoại quốc, mà tôi không bán. Có người dám trả tới 200 dola. Tôi còn một tượng đồng đen nhỏ, mà tụi nó quý hơn vàng. Nghe nói tụi nó có thể bán cho Nga-Xô bằng một giá rất đắt. Tụi Nga dùng đồng đen trong kỹ-nghệ nguyên-tử. Tôi sợ tụi nó “chớp”, nên trao cho một người bạn giữ hộ.
Lần khác tôi tới nhà ông, gặp luôn cả người bạn quen từ hồi còn lưu học tại Tokyo, là chị NTD hiện giờ là bạn đồng nghiệp của ông.
Nghiêm-Thẩm không ngại nói thẳng với tôi:
Bà NTD mới làm hôn-thú với tôi, để cùng đứng đơn xin đoàn-tụ với ba má ở Canada. Hiện giờ bà NTDvà một cô cháu gái ở với tôi. Còn nhà tôi và mấy cháu đang ở Hoa-Kỳ.
Chị NTD cũng hay nói lại nhiều truyện cũ tại Tokyo; hiện nay chị dạy Nhật-ngữ cho đại-học Văn-khoa và xung vào nhóm Từ-điển Nhật-Việt. Vì thế tôi quen với cả hai người. Từ đó mỗi lần đến thăm tôi, Nghiêm-Thẩm đều dắt chị NTD đi theo.
Có lần chị NTD nói vói tôi:
- Anh Nghiêm-Thẩm là một nhà khoa-học thuần-túy, nên anh thiếu sự đưa-đẩy uyền-chuyển, khi giao tiếp với công-an cán-bộ.
Nghiêm-Thẩm tính ít nói - hay đúng ra ít nói những truyện không thuộc khoa khảo-cổ của ông - Ông thường bảo tôi:
- Linh-mục phải giữ bí-mật những tài-liệu cổ này, kẻo tụi nó đánh hơi được thì phiền to; chiếc búa khảo cổ của tôi, tụi nó cũng biết rồi, mà cứ nay đứa này, mai đứa khác đến hỏi thăm và đòi xem.
Mỗi lần gặp nhau, ông lại cho tôi xem ít tài liệu cổ của ông - phải chăng ai thích đồ cổ, mới được Nghiêm-Thẩm đãi-thị như vậy.
Chị NDT vẫn bảo tôi:
- Anh Thẩm quý cha lắm, mới tiết-lộ những bí-mật của anh như thế.
Riêng tôi cũng cảm thấy Nghiêm-Thẩm quý tôi, mà tôi cũng quý Nghiêm-Thẩm. Hai chúng tôi mới quen nhau, mà thân nhau rất mau, chỉ vì mối duyên khảo cổ.
Có lần Ông xác nhận:
- Tôi, một người ngoại giáo, quen thân với một linh-mục công-giáo, vì tôi mến chân tình của Cha và chí-hướng của cha.
Lần lần đi tới chỗ thân mật, anh đã bỏ được hai chữ linh-mục, để gọi tôi là anh.
Một biến-cố trong đời Nghiêm-Thẩm
Bỗng một hôm tôi được mấy chữ của Nghiêm-Thẩm do một sinh-viên đem tới. Anh viết:
“Chiều nay tôi muốn gặp anh nói vài truyện quan-trọng lúc 4 giờ. Nếu anh không ngăn-trở gì, xin cho biết”. Thẩm.
Tôi nhận lời. Anh đến đúng giờ với chiếc xe đạp cũ-kỹ. Như mọi lần, sau một ly rượu bổ “Tam-Tài”, anh tiêm thuốc vào dọc tẩu, hít vài hơi, rồi vào truyện ngay:
Hôm nay tôi có truyện cần bàn với anh, vì ngoài anh ra chả biết nói với ai. Năm ngoái, thằng Lê-Duẩn từ Bắc vào, đi với Nguyễn-Tuân, nó gặp tôi ở khách-sạn Majestic, cho ăn uống thật ngon lành đúng điệu, rồi nó ca-tụng. Sau cùng nó bảo:
- Anh là một nhà khảo-cổ danh tiếng, cả người Pháp người Việt đều biết và ca-tụng. Bây giờ vì quốc-gia đại sự, tôi yêu-cầu anh tận dùng tài-năng để phụng-sự Tổ-quốc.
Tôi không biết chuyện gì mà Lê-Duẩn nói lời trịnh-trọng quá vậy. Tôi bảo hắn ta:
- Xin tổng bí thư cứ cho biết ý-kiến, tôi sẽ cố-gắng, nếu có thể.
Hắn liền nói ngay một cách trôi chảy:
- Anh Nghiêm-Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt-Nam mình như “đỉnh cao trí-tuệ loài người”, mà anh cũng được vinh-dự ấy. Việt-Nam chúng ta phải làm chủ miền Đông-Nam-Á này. Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu một điều...
Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử “nhãi-ranh” vẫn cho rằng: nguồn-gốc các sắc-tộc miền Đông-Nam-Á-Châu này là Mã-Lai hay Indonesien. Đại Nga-xô mới tìm được ít dấu vết chứng tỏ rằng Việt-Nam chúng mình mới là thủy-tổ. Chúng ta đang làm lại lịch-sử Đông-Nam Á-Châu. Khoa nhân-chủng-học và khảo-cổ của ta lúc này đang phát-đạt vô-biên, nên anh phải nắm lấy cơ-hội này, với uy-tín sẵn có của anh, anh phải viết một bài lớn, thẩm-định lại: Dân Việt-Nam là thủy-tổ các dân-tộc Đông-Nam Á-Châu. Như thế mới đúng ý-nghĩa của “Đỉnh cao trí tuệ loài người” và mới xứng-đáng tài-năng hiếm có của anh.
Tôi im-lặng một phút... trả lời hắn:
- Uy-tín của tôi lúc này là nói đúng và nói thật. Theo các tài-liệu khoa-học hiển-nhiên, nhất là khoa khảo-cổ học và nhân-chủng học quá rõ-ràng, tôi không thể viết thế khác được. Viết như đồng-chí nói là phản khoa-học.
Hắn mỉm cười, bảo tôi:
- Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng gò-bó của sách vở, của óc đế-quốc, của hủ-hậu, chứ không theo sử-quan một tí nào cả.
Tôi cảm thấy tức đầy ruột, và thực-sự lúc ấy tôi nhìn thằng Lê-Duẩn như một con chó chết đê hèn, nên tôi hơi bạo lời:
- Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo-cổ và nhân-chủng-học trên thế-giới sẽ cho tôi và cả chế-độ tôi phục-vụ là con chó chết. Tôi không bao giờ làm truyện sa-đoạ ấy.
Lê-Duẩn vẫn không lộ vẻ tức-giận. Hắn hỏi tôi vắn-tắt:
- Anh nhất định không làm truyện đó?
Tôi bỗng tìm được một danh-từ xưng-hô, trả lời hắn:
- Tôi không thể đáp-ứng yêu-cầu của đàn anh trongviệc này.
Lê-Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với câu nói cộc-lốc:
- Anh nhất định thế... Mong anh đổi ý.
Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn ta, trả lời cương-quyết:
- Tôi không bao giờ đổi ý.
Hắn ra đi, không nói thêm nửa lời.
Tôi coi đó như một biến-cố đổ vỡ trong đời tôi, dưới chế-độ cộng sản khốn-nạn này. Nhưng tôi thà tan vỡ cả tấm thân với cả chế-độ này, còn hơn đổ vỡ cho đất nước tôi, cho chí-hướng và danh-dự học thức của tôi.
Và một vinh-dự rẻ tiền
Nghiêm-Thẩm trầm ngâm một vài phút, kể tiếp:
Sau lần gặp Lê-Duẩn ấy, tôi đinh-ninh tụi nó sẽ tìm cách hủy-diệt tôi. Nhưng lạ lùng: cách đây hai tháng, Bộ-trưởng Thông-tin cùng với Phạm-huy-Thông, giám-đốc khảo-cổ Bắc-Việt và mấy thằng Bộ-trưởng khác, mà tôi không cần biết mặt biết tên, mời tôi đi họp tại một khách-sạn ở Saigon, chúng đổi tên là Hữu-Nghị. Chúng nó đưa đón tôi bằng xe Mercedes và tiếp-đãi ăn uống rất sang. Tôi đã ngán tụi nó, nên khi đồng bọn đề-cập vấn đề khảo-cổ và nhân-chủng-học, tôi chỉ ư hự, không góp ý kiến nào, cũng không tiết lộ bất cứ một tài-liệu nào. Tôi chỉ hứa viết cho Phạm-huy-Thông một bài trong tạo-chí khảo-cổ của anh.
Bộ-trưởng Thông-tin bảo tôi:
Mong anh Nghiêm-Thẩm tích-cực đóng góp tài liệu và kiến-thức, để chúng ta tham-dự Đại-Hội khảo-cổ tại Mắc-cơ-va kỳ tới. Và nếu có thể, chúng tôi cũng cần sự góp mặt của anh trong phái-đoàn đi dự hội.
Tôi trả lời thẳng thắn:
Trước đây tổng bí-thư có nói với tôi nhiều về khảo cổ và nhân-chủng-học, nhưng tôi không có một chiều-hướng nào khác với sự cố-định của tài-liệu khảo cổ. Cũng xin miễn đi hội-họp, vì tôi có nhiều ý-kiến đối-nghịch, sẽ bất lợi cho Đại-Hội.
Ông ta chỉ nói một câu:
Cái đó tùy anh.
Sau ba bốn ngày đưa đón, đãi-ngộ tôi, không đem lại kết quả nào, Bộ-trưởng Thông-tin bảo tôi:
Anh chưa đủ thành-thực.
Tôi nghe câu đó như một bản án kết tội; từ đó tôi bắt đầu chán sống. Bà NTD bảo tôi: thái độ như vậy không hay. Coi chừng tụi nó cho mình là phản chế-độ, là bất hợp-tác. Anh nên mềm dẻo với tụi nó thì hơn.
Nhưng tôi không thể làm khác được.
Tôi chỉ biết thông-cảm nỗi lòng của anh: nghe theo không được, mà không nghe theo cũng không xong.
Những điềm gở của tan vỡ
Vào thượng tuần tháng 11, 1979, sau khi tham dự hội-thảo ngữ-học với phái-đoàn Nga-Xô, Nghiêm-Thẩm tới phòng tôi nói truyện. Hôm ấy con người anh có dáng điệu chán-nản và bi-quan lạ thường. Câu truyện anh nói hôm nay cũng đượm màu kỳ-bí không vui. Thái-độ của anh hôm nay cũng khác lạ. Anh nói với tôi đúng giọng một “con chiên”:
Có lẽ tôi phải xin anh rửa tội, để vào đạo, nấp bóng từ-bi của Đức Chúa, mong niềm an-ủi phù-trợ của Ngài. Lúc này tôi chán-nản hết rồi, mấy hôm nay nhiều điềm gở lạ xảy đến, làm tôi hết sức hoang-mang e-ngại, anh ạ... Hôm thứ Hai vừa qua tôi đang đọc sách trước sân bên cạnh giàn hoa, đột nhiên có hai con chim đánh nhau trên trời rơi xuống chết ngay trước mặt dưới chân tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như có gì rợn rùng sắp tới.
Rồi hôm qua, bể cá của tôi có ba con cá rất đẹp tôi vốn ưa thích, bỗng dưng ba con cá ấy cũng lăn ra chết. Vì thế, mấy hôm nay hình ảnh của cái chết-chóc ám-ảnh tôi hoài. Bà NTD cho đó là những điềm rất gở. Có lẽ tụi nó sắp hại tôi.
Không biết an-ủi anh thế nào, tôi chỉ trấn an anh:
Nếu anh coi đó là điềm dữ, thì nên giữ mình thận-trọng hơn. Tôi cầu mong anh thoát ly mọi tai-biến.
Chúng tôi chia tay nhau một cách buồn thảm, chỉ nói với nhau một câu đồng vọng:
— Số phận chúng mình dưới chế-độ cộng-sản chỉ có thế!
*
Sau đó tôi được cấp giấy phép đi giảng dạy Đông-y tại Cần-Thơ. Sau mấy tuần lễ, trở lại Chí-Hòa, đến thăm LTN, thì anh cho biết: Nghiêm-Thẩm đã chết cách đây hai tuần, tức vào cuối tháng 11,1979...
Vào lúc 11 giờ trưa, có hai kẻ lạ mặt tông cửa vào nhà anh, lúc ấy chị NTD vắng nhà, chỉ có người cháu gái ở nhà trong. Tụi nó giơ súng áp đảo Nghiêm-Thẩm, bắt anh đưa nộp chiếc búa khảo cổ. Nhận được chiếc búa, chúng dã man đập vào đầu anh ba búa. Anh nằm chết trên vũng máu. Hai tên sát nhân tàn ác lấy chiếc búa bỏ chạy, trước sự chứng kiến của người cháu.
Cô này vội đi tìm chị NTD về. Công-an Thành đến điều-tra, lập biên-bản và tức khắc niêm-phong tủ sách của Nghiêm-Thẩm. Chị NTD đứng lo mai táng cho anh. Có ít bạn đồng nghiệp tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng ...
Bạn bè ngồi lại kể truyện Nghiêm-Thẩm, mới biết anh đã tiết-lộ những điềm gở trên đây cho sáu người, trước khi chết mười ngày.
Lúc này mọi người chỉ còn biết ngồi lại, âm-thầm tưởng-niệm một người bạn đáng kính, đã ra đi tức-tưởi, không bao giờ trở lại.
Anh LTN và NTN mời anh em nâng ly rượu, chiêu hồn Nghiêm-Thẩm về, để chứng-kiến mối hận ngàn trùng của anh chị em trí-thức Việt-Nam dưới bàn tay ác ôn đẫm máu của bọn phỉ quyền Hà Nội đê tiện và hèn hạ.
Anh NTN đại-diện anh chị em ngâm lên mấy vần thơ thâm niệm:
Nghiêm-Thẩm ! Nghiêm-Thẩm !
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang-Sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán-hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng-giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí-thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài-lang,
Nguyện làm mưa cho quê-hương mát-mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất Mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh-bình.
_____________
Đôi nét về Linh mục Phêrô Vũ Đình Trác
Linh Mục Phêrô Vũ Đình Trác là một người đa tài - bút hiệu là Hán Chương, giáo sư tiến sĩ triết học Đông Phương tại nhiều trường trung học và đại học trước năm 1975, đông y sĩ, nhạc sĩ thánh ca, tác giả của ca khúc hợp xướng nổi tiếng “Tình Chúa Yêu Tôi” - đã qua đời bình yên tại tư gia trong đêm 29 rạng 30 Tháng Chín, năm 2003, thọ 77 tuổi.
Linh mục Vũ Đình Trác cũng là nguyên Chủ Tịch Liên Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ và Chủ Tịch Cộng Đồng Giáo Sĩ và Tu Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Linh mục đã chứng tỏ có một nhãn quan độc đáo với một viễn kiến rất bao dung về tương lai dân tộc Việt Nam, vượt trên mọi tranh chấp đương thời.
Thụ phong linh mục năm 26 tuổi tại Vương Cung Thánh Đường Saigon ngay trong năm đầu tiên sau khi chạy lánh nạn cộng sản từ Bắc vào Nam, Lm. Trác đã phụ trách rất nhiều công việc, từ tôn giáo tới xã hội, từ văn hóa tới chính trị...
Năm 1956, Ngài làm chủ nhiệm Tuần Báo Đường Sống, viết về các vấn đề của người tỵ nạn miền Bắc vào Nam lánh nạn cộng sản.
Ngài từng ủng hộ chính quyền của nguyên Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng ngài cũng đã thẳng thắn thừa nhận sự kiện vị lãnh đạo miền Nam đang mất uy tín với dân chúng qua bài viết kêu gọi mọi người “hãy cầu nguyện cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm lấy lại được uy tín” với quốc dân.
Chính vì bài viết này, ngài đã bị đưa ra tòa với tội chống chính quyền và bị kêu án 18 tháng tù. Theo chính Lm. Trác tiết lộ, diễn tiến này xảy ra dưới sự điều động của bà Ngô Đình Nhu, em dâu Tổng Thống, trong lúc Tổng Thống Diệm công du Hoa Kỳ. Hay biết được chuyện này, Tổng Thống Diệm đã đích thân can thiệp, ân xá và xóa án cho ngài.
Là một học giả cực kỳ uyên bác, ngài tinh thông nhiều ngoại ngữ, như tiếng Hoa, tiếng Nhật, Anh, Pháp, La Tinh... Lm. Trác đậu Cử Nhân Văn Chương Việt Hán tại Đại Học Sài Gòn, đậu Tiến Sĩ Triết Học Đông Phương tại Đại Học Fujen, Đài Loan với luận án “Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ”, Tiến Sĩ Triết Học Đông Phương tại Đại Học Sophia, Nhật Bản, với luận án “Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du”. Luận án sau này đã được dịch ra Anh Ngữ, và xuất hiện tại nhiều thư viện của Hoa Kỳ.
Ngoài các luận án kể trên, Lm. Trác còn là tác giả nhiều công trình nghiên cứu văn học, y học và triết học, như “Việt Nam trong quĩ đạo thế giới” (xuất bản 1985 tại Hoa Kỳ), “Công Giáo Việt Nam trong truyền thống văn hóa dân tộc” (xuất bản 1996 tại Hoa Kỳ), “Một trăm cây thuốc vạn linh”, các sách giáo khoa Anh Ngữ, Pháp Ngữ...
Đặc biệt, hai lần là nạn nhân của chế độ cộng sản, lần thứ nhất ở miền Bắc trước năm 1954, và lần thứ hai tại miền Nam sau năm 1975 cho mãi tới năm 1980, ngài đã chứng kiến nhiều trang sử đau khổ của đất nước dưới chế độ cộng sản. Với tự truyện “Rồng Xanh Ngục Đỏ”, Lm. Trác đã vạch trần nhiều sự thật đắng cay của đất nước trong những năm đầu cộng sản mới chiếm miền Nam.